Theo chương trình kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XV, chiều 9/11, Quốc hội sẽ thảo luận ở hội trường về dự án Luật Phòng thủ dân sự. Sau đó, Đại tướng Phan Văn Giang - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng phát biểu giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu.
Bộ Quốc phòng vừa có báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến của các đại biểu Quốc hội trong phiên thảo luận ở Tổ về dự án Luật Phòng thủ dân sự.
|
Đại tướng Phan Văn Giang - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. |
Bộ Quốc phòng khẳng định, khái niệm "phòng thủ dân sự" trong dự thảo Luật Phòng thủ dân sự kế thừa của Luật Quốc phòng và tiếp thu có chọn lọc pháp luật thế giới về phòng thủ dân sự, bảo đảm phù hợp với thực tiễn; đồng thời, thể chế hóa đầy đủ Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 30/8/2022 của Bộ Chính trị về phòng thủ dân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo.
Cụ thể, Luật Quốc phòng năm 2018 quy định: "Phòng thủ dân sự là bộ phận của phòng thủ đất nước bao gồm các biện pháp phòng, chống chiến tranh; phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh; bảo vệ Nhân dân, cơ quan, tổ chức và nền kinh tế quốc dân."
Chính vì thế, dự thảo Luật Phòng thủ dân sự định nghĩa: "Phòng thủ dân sự là bộ phận của phòng thủ đất nước bao gồm các biện pháp phòng, chống, khắc phục hậu quả chiến tranh; phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh; bảo vệ Nhân dân, cơ quan, tổ chức và nền kinh tế quốc dân".
Như vậy, so với Luật Quốc phòng chỉ bổ sung thêm nội dung "khắc phục hậu quả chiến tranh".
Dự thảo Luật Phòng thủ dân sự quy định: Cấp độ phòng thủ dân sự là hoạt động của chính quyền, lực lượng tham gia phòng thủ dân sự và người dân, các biện pháp được áp dụng và các nguồn lực cần huy động trong việc ứng phó, khắc phục thảm họa, sự cố do thiên nhiên hoặc con người gây thiệt hại về người, tài sản, môi trường trên một khu vực nhất định và khả năng lan sang các khu vực khác.
Trước đó, thảo luận tại tổ về dự án luật,
các ý kiến ĐBQH đồng tình với sự cần thiết xây dựng luật để đáp ứng yêu cầu trong công tác phòng thủ đất nước.
Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Kạn, Phó Tư lệnh Quân khu 1 Hoàng Văn Hữu nhất trí với báo cáo thẩm tra của Ủy ban Quốc phòng an ninh; đánh giá cao nỗ lực của cơ quan soạn thảo đã hoàn thành dự thảo luật này trong thời gian rất ngắn. Đại biểu cũng đề nghị làm rõ một số nội dung cụ thể về giải thích từ ngữ; đề nghị quy định rõ hơn về lực lượng phòng thủ dân sự; ứng dụng khoa học và công nghệ trong phòng thủ dân sự; diễn tập phòng thủ dân sự; phân công, phân cấp trách nhiệm phòng thủ dân sự; về cơ quan chỉ đạo, chỉ huy phòng thủ dân sự; xác định lực lượng nòng cốt trong phòng thủ dân sự.
Ngoài ra, cũng có nhiều đại biểu ý kiến cho rằng việc phân loại cấp độ phòng thủ dân sự là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, không nên chỉ dựa trên phạm vi địa giới hành chính.
Bộ Quốc phòng khẳng định: Việc xác định cấp độ phòng thủ dân sự căn cứ vào thông tin về các dạng thảm họa, sự cố xảy ra trên địa bàn (phạm vi ảnh hưởng, khả năng lan rộng của thảm họa, sự cố; diễn biến, khả năng gây thiệt hại và thiệt hại của thảm họa, sự cố); đặc điểm địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội của địa bàn chịu ảnh hưởng của thảm họa, sự cố và khả năng ứng phó với thảm họa, sự cố của chính quyền địa phương, lực lượng phòng thủ dân sự và người dân tham gia ứng phó với thảm họa, sự cố.
Người hoặc cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm đánh giá mức độ rủi ro về thảm họa, sự cố làm cơ sở để quyết định ban bố, bãi bỏ phòng thủ dân sự cấp độ 1, cấp độ 2, cấp độ 3 tương ứng trên địa bàn quản lý.
"Như vậy, với những tiêu chí mang tính chủ quan, khách quan nêu trên đã bảo đảm tính bao quát, đầy đủ cho việc xác định cấp độ phòng thủ dân sự của các cấp chính quyền địa phương trong việc ứng phó với các thảm họa, sự cố"- Bộ Quốc phòng cho hay.
Theo cơ quan soạn thảo, nội hàm khái niệm "phòng thủ dân sự" như trên thể hiện ở ba nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, phòng, chống, khắc phục hậu quả chiến tranh;
Thứ hai, phòng, chống, khắc phục hậu quả thảm họa, sự cố, thiên tai, dịch bệnh;
Thứ ba, bảo vệ Nhân dân, cơ quan, tổ chức và nền kinh tế quốc dân.