Cắt nghĩa các tên gọi khác của Chùa

Google News

Bên cạnh cái tên Chùa thuần Việt, còn nhiều mỹ từ gốc Hán khác như Tự, Già lam cũng thông dụng không kém để chỉ ngôi chùa trong tiếng Việt.

(Kienthuc.net.vn) - Ngôi chùa từ lâu đã hiện hữu và gắn bó thân thiết với mỗi chúng ta. Đâu đâu cũng có chùa và tất cả đã trở thành một phần không thể tách rời trong lòng người Việt.

Về tên gọi Chùa, hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú trên địa bàn nhất định.

Bên cạnh cái tên Chùa thuần Việt, chất phác ấy thì còn nhiều mỹ từ gốc Hán khác như Tự, Già lam cũng thông dụng không kém để chỉ ngôi chùa trong tiếng Việt. Nhưng vì sao những từ đó được dùng để chỉ kiến trúc nhà có chức năng thờ Phật?

v
Chùa Đình Quán (hay Phúc Quang Tự) ở xã Phú Diễn, huyện Từ Liêm, Hà Nội.

Trước hết là Tự (寺): Ngày nay chữ này được dùng đứng sau làm thành tố chính để kết hợp với một từ định danh nào đó tạo thành một cụm danh từ nêu tên gọi một ngôi chùa cụ thể. Ví dụ như Trấn Quốc Tự, Phúc Quang Tự, Linh Viên Tự,...

Như vậy, Tự được hiểu nghĩa là chùa nhưng trong ngôn ngữ Trung Quốc cổ đại thì nghĩa của Tự không phải là chùa. Bởi vì Phật giáo mới tiến nhập Trung Quốc từ đầu Công Nguyên, trong khi chữ Hán thì đã có sớm hơn rất nhiều.

Tự vốn là từ để chỉ cơ quan làm việc cụ thể của bộ máy chính quyền phong kiến. Vậy tại sao từ Tự chỉ một sở cục cụ thể được chuyển hẳn sang nghĩa là chùa? Đây là nguyên nhân lịch sử, dấu mốc đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc.

Hán Minh Đế Lưu Trang (25-75) là vị vua đầu tiên thừa nhận địa vị của Phật giáo ở Trung Quốc. Tương truyền nhà vua nằm mộng thấy “người vàng” bay qua sân điện, bèn sai sứ giả 12 người do Lang Trung Thái Âm dẫn đầu sang Tây Trúc cầu tìm đạo Phật. Đó là sự kiện năm Vĩnh Bình 7 (64).

Ba năm sau (67), sứ giả về với hai tăng nhân người Ấn Độ cùng rất nhiều kinh sách và tượng Phật được thồ trên lưng ngựa trắng. Lúc các tăng nhân cùng kinh, tượng, về đến kinh đô, triều đình chưa chuẩn bị kịp chỗ ở riêng nên cho ở tạm trong Hồng lô tự.

Sau đó nhà vua mới cho xây dựng khu nhà mà chúng ta gọi là chùa để thờ Phật và các tăng nhân tu tập. Kiến trúc xây dựng theo kiểu mẫu dinh thự của quý tộc đương thời.

Sau đó chùa được xây dựng ngày càng nhiều cũng theo kiểu mẫu nhà ở của địa phương. Chính vì vậy mà chùa ở Trung Quốc và cả ở Việt Nam khi tiếp nhận Phật theo hướng Trung Quốc có kiểu chùa rất riêng, không theo quy chuẩn mái cong tháp nhọn như nơi Phật giáo phát nguyên.

Già lam (伽 藍) cũng là tên gọi của ngôi chùa. Đây không phải là tên có nguồn gốc biến đổi như Tự ở trên. Già lam là tên gọi tắt của Tăng già lam ma (Sangharama). Tăng già là một nhóm tăng nhân đi Hoằng pháp, thường từ bốn người trở lên. Tăng già lam ma 僧伽藍: là nơi ở của các tăng nhân để tu hành, sau chỉ chung kiến trúc ngôi chùa.

Như vậy, Già lam ở đây nghĩa như Tự. Nhưng theo tài liệu bằng chữ Hán của Tuần phủ Hà Nam-hiệp biện đại học sĩ Mai Viên Đoàn Triển (1854- 1919) trong “An Nam phong tục sách” thì Già lam chỉ là chùa nhỏ.

Cũng có chùa nhỏ (tiểu tự) không có Tăng Ni mà có một người giữ chùa (Thủ tự, ông Tự) để dâng hương, thắp đèn lễ cúng, gọi là Già lam.

Vậy thế nào gọi là Chùa?

Truy về nguồn gốc chữ Chùa không đâu hơn là dựa vào mã chữ Nôm. Trong chữ Nôm, Chùa được ghi bằng Trù. Ngữ âm lịch sử đã chứng minh: /ch/ là âm trước của /tr/ khi người Việt đọc chữ Hán.

Chùa là âm tiền Hán Việt của Trù, nó nằm trong hệ thống ch > tr, như chén > trản, chém > trảm, chọn > trạch, chèo > trạo, chầy > trì, chay > trai, chứa > trữ... Trù có nghĩa là bếp, tiếng Hán hiện đại, trù phòng có nghĩa là nhà bếp, nơi ấm áp, yên bình trong mỗi gia đình.

Suy rộng ra xã hội, nơi ấm áp, yên bình nhất chính là ngôi chùa. Chùa là nơi người ta được san sẻ, được thỏa nguyện về cả vật chất lẫn tinh thần.

Trong tiếng Việt ta còn có chữ Chùa chiền để chỉ chung về những thắng cảnh Phật giáo. Vậy Chiền là gì? Nó là từ có yếu tố độc lập hay là yếu tố láy của từ chùa? Thực ra nó xuất phát từ âm Triền: chỗ ở của người dân nói chung. Cũng như Chùa, Chiền là âm tiếng Việt của âm Triền Hán Việt.

Như vậy đây là một từ ghép đẳng lập của người Việt để chỉ thắng cảnh Phật giáo nói chung. Trong đó, Chùa là yếu tố trung tâm, tương đương với nó chính là Tự. Còn tiếng Hán tương đương với Chùa Chiền không phải là Tự mà là Sát. Sát là âm được phiên âm từ tiếng Phạn, là chùa nói chung, từ Hán Việt có các từ như: Cổ sát: chùa cổ, Bảo sát danh sơn: thắng cảnh núi non có chùa…

Tổng quan lại có thể thấy nghĩa của các từ chỉ về ngôi chùa Phật giáo luôn gắn bó mật thiết với ngôi nhà của chúng ta. Do đó, nó vừa tạo sự gần gũi lại vừa linh thiêng. Chính vì vậy mà ngay từ tên gọi đã toát lên vẻ ấm áp, thân thương và thành kính, mang đậm tư duy Phật giáo Á Đông nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng.

(Bài viết có sử dụng tài liệu của Thạc sĩ Tạ Đức Tú - Bộ môn Ngữ văn, Khoa KHXH &NV, ĐH Cần Thơ)

Bùi Hiền 

Bình luận(0)