Lực lượng phòng không Liên Xô từng phát hiện hơn 4.000 khí cầu trong không phận vào giai đoạn 1956-1977Một số khí cầu đã bay vào sâu tới hơn 1.900 km trên lãnh thổ nước này, trong khi tên lửa phòng không và tiêm kích của Liên Xô tỏ ra không hiệu quả với nhiệm vụ đánh chặn các vật thể đó.Từ ngày 11/8 đến 14/9/1975, quân đội Liên Xô phát hiện 11 khí cầu trôi nổi trên bầu trời ở độ cao 12-14 km.Triển khai hàng loạt tiêm kích MiG-19, MiG-21, Tu-128, Su-15TM và Yak-28P để đối phó, nhưng chỉ bắn hạ được 8 khí cầu trong số đó.Thực tế này buộc Liên Xô phải cải tiến một số hệ thống tên lửa phòng không S-25 Berkut và S-125 Neva cũng như phát triển các máy bay được mệnh danh "sát thủ khí cầu".Quá trình phát triển máy bay đánh chặn khí cầu tầm cao được khởi động từ đầu thập niên 1970Loại máy bay này không cần tốc độ cao, vì khí cầu di chuyển rất chậm và gần như đứng yên trên không.Yếu tố quan trọng nhất mà phi cơ cần đạt được là khả năng bay đến độ cao lớn và cơ động lượn vòng trên đó.Khí cầu do thám thường có diện tích phản xạ radar rất nhỏ, khiến radar thông thường gặp nhiều khó khăn trong phát hiện và bám bắt mục tiêu.Điều đó khiến mẫu phi cơ "sát thủ khí cầu" cần được trang bị cảm biến quang - điện tử và pháo đặt trên bệ quay độc lập để xạ kích mục tiêu bay cao hơn.Dự án đầu tiên được Liên Xô lựa chọn là Myasishchev M-17 do nhóm của Vladimir Myasishchev thiết kế.Máy bay ứng dụng thiết kế hai đuôi, sử dụng một động cơ tua-bin phản lực Kolesov RD36-51V mạnh nhất của Liên Xô khi đó.Phi cơ có thể nhanh chóng đạt trần bay hơn 21 km, nhưng thời gian hoạt động chỉ kéo dài khoảng hai giờ.Chiếc máy bay M-17 đầu tiên được xuất xưởng năm 1978.Nhưng gặp sự cố trong lúc thử nghiệm trên mặt đất tháng 12/1978 và bị phá hủy hoàn toàn, khiến phi công thiệt mạng.Nguyên mẫu M-17 thứ hai ra đời năm 1981, được sơn logo hãng hàng không Aeroflot và mang số hiệu dân sự.Chiếc phi cơ thực hiện chuyến bay đầu tiên ngày 26/5/1982.M-17 được trang bị cảm biến quang - điện tử đặc biệt, có thể phát hiện khí cầu có đường kính 30 m từ khoảng cách tối đa 40 km và tự động bám bắt mục tiêu.Loại máy bay này cũng được hỗ trợ bởi một cụm đo xa laser với tầm hoạt động 8 km.Phương thức hướng mũi máy bay và nòng pháo về phía mục tiêu như tiêm kích thông thường không thể thực hiện được ở độ cao hoạt động của M-17.Các nhà thiết kế đã lắp cho nó một bệ pháo BD-59, trang bị pháo nòng đôi GSh-23 cỡ nòng 23 mm và 500 viên đạn.Nòng pháo hướng lên trên cho phép M-17 bắn trúng khí cầu bay cao hơn nó khoảng 4 km.Tuy nhiên, không quân Liên Xô đối mặt thách thức mới với mẫu pháo này.Đạn 23 mm tiêu chuẩn của pháo nòng đôi GSh-23 thường xuyên thẳng qua vỏ khí cầu mà không khiến nó vỡ tung, cho phép khí cầu tiếp tục bay trong thời gian dài.Một loại đạn đặc biệt sau đó được phát triển riêng cho M-17, sử dụng ngòi nổ độ nhạy cao có thể kích hoạt khi va chạm với lớp vỏ mỏng của khí cầu.Đồng thời tạo ra vết rách rộng nhiều mét vuông khi bắn trúng đích.Trong quá trình bay thử nguyên mẫu M-17, không quân Liên Xô phát hiện hàng loạt vấn đề, như phần đuôi rung lắc mạnh khi bay ở tốc độ và độ cao lớn.Đồng thời các bề mặt cánh lái phải chịu tải lớn quá mức cho phép và phanh gió tỏ ra kém hiệu quả.Những vấn đề này dần được khắc phục, tuy nhiên dự án M-17 phải nhường chỗ cho một loại máy bay khác biệt hoàn toàn.Tuy vậy trên cơ sở của dòng máy bay này, Nga đã phát triển những biến thể khác cho nhiệm vụ trinh sát tầm cao đó là chiếc M-55.Myasishchev M-55 là một loại máy bay trinh sát tầng cao của Liên Xô, do Myasishchev thiết kế.Tuy M-55 được gọi là "U-2 Liên Xô" nhưng tính năng của nó kém hơn Lockheed U-2 nhiều với trần bay tối đa chỉ khoảng 21.500m.Thời gian hoạt động liên tục trên không chỉ là 2,25 giờ ở độ cao 17.000m, còn nếu bay ở độ cao 21.000m thì chỉ trong 35 phút.U-2 có tốc độ bay khoảng 805 km/h nhưng nó có thể đạt trần bay cực cao 25.900m, tầm bay tới 10.300 km, bay liên tục 12 giờ.
Lực lượng phòng không Liên Xô từng phát hiện hơn 4.000 khí cầu trong không phận vào giai đoạn 1956-1977
Một số khí cầu đã bay vào sâu tới hơn 1.900 km trên lãnh thổ nước này, trong khi tên lửa phòng không và tiêm kích của Liên Xô tỏ ra không hiệu quả với nhiệm vụ đánh chặn các vật thể đó.
Từ ngày 11/8 đến 14/9/1975, quân đội Liên Xô phát hiện 11 khí cầu trôi nổi trên bầu trời ở độ cao 12-14 km.
Triển khai hàng loạt tiêm kích MiG-19, MiG-21, Tu-128, Su-15TM và Yak-28P để đối phó, nhưng chỉ bắn hạ được 8 khí cầu trong số đó.
Thực tế này buộc Liên Xô phải cải tiến một số hệ thống tên lửa phòng không S-25 Berkut và S-125 Neva cũng như phát triển các máy bay được mệnh danh "sát thủ khí cầu".
Quá trình phát triển máy bay đánh chặn khí cầu tầm cao được khởi động từ đầu thập niên 1970
Loại máy bay này không cần tốc độ cao, vì khí cầu di chuyển rất chậm và gần như đứng yên trên không.
Yếu tố quan trọng nhất mà phi cơ cần đạt được là khả năng bay đến độ cao lớn và cơ động lượn vòng trên đó.
Khí cầu do thám thường có diện tích phản xạ radar rất nhỏ, khiến radar thông thường gặp nhiều khó khăn trong phát hiện và bám bắt mục tiêu.
Điều đó khiến mẫu phi cơ "sát thủ khí cầu" cần được trang bị cảm biến quang - điện tử và pháo đặt trên bệ quay độc lập để xạ kích mục tiêu bay cao hơn.
Dự án đầu tiên được Liên Xô lựa chọn là Myasishchev M-17 do nhóm của Vladimir Myasishchev thiết kế.
Máy bay ứng dụng thiết kế hai đuôi, sử dụng một động cơ tua-bin phản lực Kolesov RD36-51V mạnh nhất của Liên Xô khi đó.
Phi cơ có thể nhanh chóng đạt trần bay hơn 21 km, nhưng thời gian hoạt động chỉ kéo dài khoảng hai giờ.
Chiếc máy bay M-17 đầu tiên được xuất xưởng năm 1978.
Nhưng gặp sự cố trong lúc thử nghiệm trên mặt đất tháng 12/1978 và bị phá hủy hoàn toàn, khiến phi công thiệt mạng.
Nguyên mẫu M-17 thứ hai ra đời năm 1981, được sơn logo hãng hàng không Aeroflot và mang số hiệu dân sự.
Chiếc phi cơ thực hiện chuyến bay đầu tiên ngày 26/5/1982.
M-17 được trang bị cảm biến quang - điện tử đặc biệt, có thể phát hiện khí cầu có đường kính 30 m từ khoảng cách tối đa 40 km và tự động bám bắt mục tiêu.
Loại máy bay này cũng được hỗ trợ bởi một cụm đo xa laser với tầm hoạt động 8 km.
Phương thức hướng mũi máy bay và nòng pháo về phía mục tiêu như tiêm kích thông thường không thể thực hiện được ở độ cao hoạt động của M-17.
Các nhà thiết kế đã lắp cho nó một bệ pháo BD-59, trang bị pháo nòng đôi GSh-23 cỡ nòng 23 mm và 500 viên đạn.
Nòng pháo hướng lên trên cho phép M-17 bắn trúng khí cầu bay cao hơn nó khoảng 4 km.
Tuy nhiên, không quân Liên Xô đối mặt thách thức mới với mẫu pháo này.
Đạn 23 mm tiêu chuẩn của pháo nòng đôi GSh-23 thường xuyên thẳng qua vỏ khí cầu mà không khiến nó vỡ tung, cho phép khí cầu tiếp tục bay trong thời gian dài.
Một loại đạn đặc biệt sau đó được phát triển riêng cho M-17, sử dụng ngòi nổ độ nhạy cao có thể kích hoạt khi va chạm với lớp vỏ mỏng của khí cầu.
Đồng thời tạo ra vết rách rộng nhiều mét vuông khi bắn trúng đích.
Trong quá trình bay thử nguyên mẫu M-17, không quân Liên Xô phát hiện hàng loạt vấn đề, như phần đuôi rung lắc mạnh khi bay ở tốc độ và độ cao lớn.
Đồng thời các bề mặt cánh lái phải chịu tải lớn quá mức cho phép và phanh gió tỏ ra kém hiệu quả.
Những vấn đề này dần được khắc phục, tuy nhiên dự án M-17 phải nhường chỗ cho một loại máy bay khác biệt hoàn toàn.
Tuy vậy trên cơ sở của dòng máy bay này, Nga đã phát triển những biến thể khác cho nhiệm vụ trinh sát tầm cao đó là chiếc M-55.
Myasishchev M-55 là một loại máy bay trinh sát tầng cao của Liên Xô, do Myasishchev thiết kế.
Tuy M-55 được gọi là "U-2 Liên Xô" nhưng tính năng của nó kém hơn Lockheed U-2 nhiều với trần bay tối đa chỉ khoảng 21.500m.
Thời gian hoạt động liên tục trên không chỉ là 2,25 giờ ở độ cao 17.000m, còn nếu bay ở độ cao 21.000m thì chỉ trong 35 phút.
U-2 có tốc độ bay khoảng 805 km/h nhưng nó có thể đạt trần bay cực cao 25.900m, tầm bay tới 10.300 km, bay liên tục 12 giờ.