Tổng thống James Buchanan (1857-1861) bị đánh giá
là ông chủ Nhà Trắng tồi nhất trong lịch sử nước Mỹ bởi quá nhu
nhược và khả năng lãnh đạo kém cỏi. Trong thời gian nắm quyền,
Tổng thống thứ 15 này đã không đủ kiên quyết và mạnh mẽ để chống
lại âm mưu của các bang miền Nam đòi ly khai dẫn đến cuộc nội
chiến đẫm máu nhất nước Mỹ. Đồng thời, ông cũng không chứng
tỏ được tài lãnh đạo khi để nước Mỹ chìm trong suy thoái.
Cụ thể, ông
ủng hộ quyết định của Tòa án Tối cao, từ chối quyền công dân
cho tầng lớp nô lệ và ủng hộ chế độ chiếm nô. Điều này khiến
các nghị sĩ đảng Dân chủ vô cùng phẫn nộ và dẫn đến sự chia rẽ
đảng phái cũng như nội chiến.
Tổng thống thứ
17 Andrew Johnson (1865-1869) là một trong 10 lãnh đạo cấp cao nhất của Mỹ được bình
chọn là Tổng thống tệ nhất lịch sử. Ngay sau cuộc nội chiến, ông
Johnson đã quyết định đứng về phía người da trắng tại các bang miền Nam
và ngăn cản việc mở rộng quyền con người ở các bang thuộc khu vực này.
Cụ thể, ông chỉ bãi bỏ chế độ nô lệ mà không hề chú ý đến quyền lợi của
người da màu. “Nước Mỹ vẫn
đang tiếp tục phải trả giá cho sai lầm của Andrew Johnson”, giáo sư sử
học danh dự Michael Le Benedict thuộc Đại học Ohio nhận định.
Tổng thống Franklin Pierce (1853-1857) cũng được cho
là một trong những người “châm ngòi” cho cuộc nội chiến ở Mỹ. Khi được
bầu làm Tổng thống thứ 14, cựu chiến binh Mexico đẹp trai đã hăng hái
trong việc kiểm soát tình trạng nô lệ. Ông là người ủng hộ mạnh mẽ thỏa
ước Missouri năm 1820, Đạo luật Nô lệ bỏ trốn năm 1850 và Đạo luật
Kansas-Nebraska năm 1854.
Nội dung những
đạo luật đó nói về chế độ nô lệ. Ở miền Bắc, làn sóng ủng hộ chế độ bãi
nô ngày càng mạnh mẽ. Còn người miền Nam hầu như chẳng thấy có lỗi với
những người nô lệ và đấu tranh để duy trì chế độ chiếm nô một cách mạnh
mẽ.
Tổng thống Mỹ
thứ 13 Millard Fillmore (1850-1853) lên nắm quyền “nhờ” đương kim Tổng thống Zachary
Taylor qua đời sau hơn một năm làm ông chủ Nhà Trắng.
Một trong những
“sai lầm” nghiêm trọng của ông là đã tán thành thỏa hiệp Đạo
luật Nô lệ bỏ trốn. Trong đó, ông phê chuẩn đạo luật cho phép chính phủ
liên bang bắt nô lệ bỏ trốn đem trả lại cho những người chủ. Điều này
trở thành mầm mống cho cuộc nội chiến đẫm máu ở Mỹ.
Tổng thống John Tyler (1841-1845) là ông chủ Nhà Trắng đầu tiên trong lịch sử lên nắm giữ vị trí tối cao này từ vị trí Phó Tổng
thống. Sở dĩ ông có cơ cơ hội này là bởi đương kim Tổng thống William
Harrison qua đời vì bệnh viêm phổi sau khi tuyên thệ nhậm chức được 30
ngày.
Khi còn là
thượng nghị sĩ, Tổng thống thứ 10 của nước Mỹ bắt đầu sự nghiệp chính
trị của mình với việc phản đối kế hoạch của liên bang về việc đánh thuế vào
những người thu nhập cao, ủng hộ quyền lợi cho giai cấp nô lệ, chống sự
độc quyền của ngân hàng quốc gia, bảo vệ đặc quyền của bang Nam Carolina
và có thể ly khai nếu muốn… Tuy nhiên, mọi
chuyện đã thay đổi kể từ khi ông trở thành chủ nhân Nhà Trắng. Ông làm
ngược lại những điều đã tuyên bố trước đây. Chính vì vậy, toàn bộ nội
các dưới thời cố Tổng thống Harrison nắm quyền đều từ chức khiến ông phải chật vật chống đỡ khó
khăn mới duy trì được địa vị và thành lập nội các mới.
Tổng thống Ulysses S. Grant (1869-1877) từng là đại tướng Liên bang miền Bắc trong cuộc nội chiến và là một trong 10 ông chủ Nhà Trắng tệ nhất lịch sử Mỹ. Trong thời gian
nắm quyền, ông đã không thể kiểm soát được tình trạng tham
nhũng, khiến nó trở thành một vấn nạn. Thêm vào đó, ông còn là Tổng
thống Mỹ duy nhất trong lịch sử từng bị bắt giữ khi vẫn đương nhiệm. Lý
do ông bị “sờ gáy” là do cưỡi ngựa quá tốc độ và bị phạt 20 USD. Trước khi trở
thành Tổng thống Mỹ thứ 9, William Harrison (1841) là vị tướng nổi tiếng trong trận
chiến Tippecanoe năm 1811. Ông giành chiến thắng trong cuộc bầu cử Tổng
thống năm 1840 dù không phải là người được phần đông công chúng ưa
thích. Ngày Tổng thống
Harrison phát biểu nhậm chức, thời tiết rất lạnh và lộng gió. Ông có
bài phát biểu được cho là dài nhất lịch sử Mỹ, kéo dài 1h40 phút và kết
quả là tân Tổng thống bị cảm lạnh. Một tháng sau khi đắc cử Tổng thống,
ông qua đời vì bệnh viêm phổi. Vì vậy, ông trở thành người nắm giữ chức
Tổng thống ngắn nhất trong lịch sử. Những thành
công mà Tổng thống Richard Nixon (1969-1974) đã làm được khi ngồi trong Nhà Trắng không thể phủ nhận, như: không chỉ là người đặt nền móng cho việc xây dựng quan hệ giữa Mỹ
với Trung Quốc mà còn đạt được một thỏa thuận cắt giảm vũ khí chiến lược
với Liên Xô. Tuy nhiên, trong thời gian nắm quyền, ông khiến cường quốc
số 1 thế giới sa lầy trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Thêm vào đó, để
ngăn cản phong trào phản chiến và lực lượng chính trị đối lập là Đảng
Dân chủ, chính quyền Tổng thống Nixon đã tiến hành một vụ gián điệp
chính trị.
Nhân viên FBI
có tên G. Gordon Liddy - vốn là tư vấn tài chính cho Uỷ ban vận động tái
cử của Tổng thống Nixon được giao 250.000 USD để thực hiện hàng loạt
“chiêu bẩn” trong đó có gián điệp chính trị. Một trong những
“phi vụ” lớn nhất mà Tổng thống Nixon chỉ huy đó là cho người đột nhập,
nghe lén và ăn cắp tài liệu văn phòng của Uỷ ban quốc gia của đảng Dân
chủ (DNC) trong toà nhà Watergate, Washington. Đây được coi là hành động
tệ nhất và không thể chấp nhận được đối với một Tổng thống Mỹ. Ông cũng
vì vụ đó mà phải từ chức. Do đó, nó trở thành vết nhơ làm ô danh tên
tuổi của ông trong lịch sử nước Mỹ. Herbert Hoover là Tổng thống Mỹ thứ 31 nhiệm kỳ năm 1929-1933, đứng ở vị trí thứ 9 trong bảng xếp hạng ông chủ Nhà Trắng tồi tệ nhất lịch sử. Trước khi trở
thành Tổng thống, ông Hoover là một kĩ sư mỏ nổi tiếng thế giới và là
nhà cầm quyền theo chủ nghĩa nhân đạo. Khi giữ chức Bộ trưởng Thương mại
Mỹ dưới thời hai Tổng thống Warren Harding và Calvin Coolidge, ông đã
xúc tiến hiện đại hóa nền kinh tế. Trong cuộc bầu cử Tổng thống năm
1928, Hoover dễ dàng giành được sự đề cử của Đảng Cộng hòa và giành
chiến thắng trong cuộc đua cam go vào Nhà Trắng. Những thách
thức mà ông phải đương đầu bắt đầu từ năm 1929 (năm đầu tiên trong nhiệm
kì Tổng thống) khi cuộc suy thoái kinh tế xảy ra. Ông đã cố gắng khắc
phục tình hình với nhiều biện pháp nhưng đều không có kết quả. Các nhà
lịch sử học nhất trí rằng, thất bại của Tổng thống Hoover trong cuộc bầu
cử Tổng thống nhiệm kỳ 2 năm 1932 phần lớn là do không giải
quyết được tình trạng suy thoái, thậm chí khiến nó trở nên tồi tệ hơn. Thêm vào đó,
chính sách cấm nấu và bán rượu do ông đề xướng đã gặp phải làn sóng phản
đối mạnh mẽ. Ngoài ra, cử tri Mỹ không còn tin tưởng vào khả năng chèo
lái con thuyền đưa nước Mỹ đi lên bởi ông làm việc luôn theo các nguyên
tắc bảo thủ, khả năng giao tiếp kém… Đó là những nguyên nhân khiến ông
để mất chiếc ghế của mình trong cuộc đua vào Nhà Trắng nhiệm kỳ 2 vào
tay Tổng thống Roosevelt. Đứng ở vị trí
thứ 10 là Tổng thống thứ 12 của nước Mỹ Zachary Taylor. Ông được đánh
giá là người đứng đầu Nhà Trắng có phong cách chính trị hài hòa nhất.
Sinh ra ở
Virginia và lớn lên ở Kentucky, Tổng thống Taylor từng là một người lính
dũng cảm đã chiến đấu hết mình và giữ chức chỉ huy trong cuộc chiến
tranh năm 1812 và chiến tranh Mexico.
Ông Taylor
không thích làm chính trị nhưng lại được đảng Whig bầu làm ứng cử viên
tranh cử Tổng thống năm 1848. Họ chọn ông làm người đại diện đảng chạy
đua vào Nhà Trắng bởi Taylor phản đối ý tưởng ly khai giữa các tiểu
bang. Trong cuộc chạy đua nước rút, ông đánh bại ứng cử viên Đảng Dân
chủ Lewis Cass và trở thành vị Tổng thống đầu tiên của Mỹ không từng giữ
bất kỳ chức vụ hành chính nào trước đó. Thêm vào đó, ông cũng là Tổng
thống đầu tiên và duy nhất đến từ tiểu bang Louisiana và là người miền Nam
cuối cùng đắc cử Tổng thống cho đến năm 1916. Khi đó, ông Woodrow Wilson cũng xuất
thân từ bang này và trở thành người đứng đầu Nhà Trắng năm 1916. Trong thời gian
cầm quyền, Tổng thống Taylor thường bị công chúng chế giễu là người ít
học, thích đánh bóng tên tuổi của mình. Một số người nghĩ rằng, chính
sách chính trị không cứng rắn của ông là nguyên nhân dẫn đến sự bùng nổ
cuộc nội chiến hồi những năm 1850. Nếu có cơ hội để sửa chữa sai lầm, có lẽ Tổng thống Taylor đã có thể khiến cuộc chiến tranh đẫm máu không
xảy ra. Tuy nhiên, ông đã không may qua đời vì mắc phải bệnh
tả do ăn bát anh đào với sữa lạnh. Khi đó, ông mới làm chủ Nhà Trắng
được hơn 1 năm.
Tổng thống James Buchanan (1857-1861) bị đánh giá
là ông chủ Nhà Trắng tồi nhất trong lịch sử nước Mỹ bởi quá nhu
nhược và khả năng lãnh đạo kém cỏi. Trong thời gian nắm quyền,
Tổng thống thứ 15 này đã không đủ kiên quyết và mạnh mẽ để chống
lại âm mưu của các bang miền Nam đòi ly khai dẫn đến cuộc nội
chiến đẫm máu nhất nước Mỹ. Đồng thời, ông cũng không chứng
tỏ được tài lãnh đạo khi để nước Mỹ chìm trong suy thoái.
Cụ thể, ông
ủng hộ quyết định của Tòa án Tối cao, từ chối quyền công dân
cho tầng lớp nô lệ và ủng hộ chế độ chiếm nô. Điều này khiến
các nghị sĩ đảng Dân chủ vô cùng phẫn nộ và dẫn đến sự chia rẽ
đảng phái cũng như nội chiến.
Tổng thống thứ
17 Andrew Johnson (1865-1869) là một trong 10 lãnh đạo cấp cao nhất của Mỹ được bình
chọn là Tổng thống tệ nhất lịch sử. Ngay sau cuộc nội chiến, ông
Johnson đã quyết định đứng về phía người da trắng tại các bang miền Nam
và ngăn cản việc mở rộng quyền con người ở các bang thuộc khu vực này.
Cụ thể, ông chỉ bãi bỏ chế độ nô lệ mà không hề chú ý đến quyền lợi của
người da màu.
“Nước Mỹ vẫn
đang tiếp tục phải trả giá cho sai lầm của Andrew Johnson”, giáo sư sử
học danh dự Michael Le Benedict thuộc Đại học Ohio nhận định.
Tổng thống Franklin Pierce (1853-1857) cũng được cho
là một trong những người “châm ngòi” cho cuộc nội chiến ở Mỹ. Khi được
bầu làm Tổng thống thứ 14, cựu chiến binh Mexico đẹp trai đã hăng hái
trong việc kiểm soát tình trạng nô lệ. Ông là người ủng hộ mạnh mẽ thỏa
ước Missouri năm 1820, Đạo luật Nô lệ bỏ trốn năm 1850 và Đạo luật
Kansas-Nebraska năm 1854.
Nội dung những
đạo luật đó nói về chế độ nô lệ. Ở miền Bắc, làn sóng ủng hộ chế độ bãi
nô ngày càng mạnh mẽ. Còn người miền Nam hầu như chẳng thấy có lỗi với
những người nô lệ và đấu tranh để duy trì chế độ chiếm nô một cách mạnh
mẽ.
Tổng thống Mỹ
thứ 13 Millard Fillmore (1850-1853) lên nắm quyền “nhờ” đương kim Tổng thống Zachary
Taylor qua đời sau hơn một năm làm ông chủ Nhà Trắng.
Một trong những
“sai lầm” nghiêm trọng của ông là đã tán thành thỏa hiệp Đạo
luật Nô lệ bỏ trốn. Trong đó, ông phê chuẩn đạo luật cho phép chính phủ
liên bang bắt nô lệ bỏ trốn đem trả lại cho những người chủ. Điều này
trở thành mầm mống cho cuộc nội chiến đẫm máu ở Mỹ.
Tổng thống John Tyler (1841-1845) là ông chủ Nhà Trắng đầu tiên trong lịch sử lên nắm giữ vị trí tối cao này từ vị trí Phó Tổng
thống. Sở dĩ ông có cơ cơ hội này là bởi đương kim Tổng thống William
Harrison qua đời vì bệnh viêm phổi sau khi tuyên thệ nhậm chức được 30
ngày.
Khi còn là
thượng nghị sĩ, Tổng thống thứ 10 của nước Mỹ bắt đầu sự nghiệp chính
trị của mình với việc phản đối kế hoạch của liên bang về việc đánh thuế vào
những người thu nhập cao, ủng hộ quyền lợi cho giai cấp nô lệ, chống sự
độc quyền của ngân hàng quốc gia, bảo vệ đặc quyền của bang Nam Carolina
và có thể ly khai nếu muốn…
Tuy nhiên, mọi
chuyện đã thay đổi kể từ khi ông trở thành chủ nhân Nhà Trắng. Ông làm
ngược lại những điều đã tuyên bố trước đây. Chính vì vậy, toàn bộ nội
các dưới thời cố Tổng thống Harrison nắm quyền đều từ chức khiến ông phải chật vật chống đỡ khó
khăn mới duy trì được địa vị và thành lập nội các mới.
Tổng thống Ulysses S. Grant (1869-1877) từng là đại tướng Liên bang miền Bắc trong cuộc nội chiến và là một trong 10 ông chủ Nhà Trắng tệ nhất lịch sử Mỹ.
Trong thời gian
nắm quyền, ông đã không thể kiểm soát được tình trạng tham
nhũng, khiến nó trở thành một vấn nạn. Thêm vào đó, ông còn là Tổng
thống Mỹ duy nhất trong lịch sử từng bị bắt giữ khi vẫn đương nhiệm. Lý
do ông bị “sờ gáy” là do cưỡi ngựa quá tốc độ và bị phạt 20 USD.
Trước khi trở
thành Tổng thống Mỹ thứ 9, William Harrison (1841) là vị tướng nổi tiếng trong trận
chiến Tippecanoe năm 1811. Ông giành chiến thắng trong cuộc bầu cử Tổng
thống năm 1840 dù không phải là người được phần đông công chúng ưa
thích.
Ngày Tổng thống
Harrison phát biểu nhậm chức, thời tiết rất lạnh và lộng gió. Ông có
bài phát biểu được cho là dài nhất lịch sử Mỹ, kéo dài 1h40 phút và kết
quả là tân Tổng thống bị cảm lạnh. Một tháng sau khi đắc cử Tổng thống,
ông qua đời vì bệnh viêm phổi. Vì vậy, ông trở thành người nắm giữ chức
Tổng thống ngắn nhất trong lịch sử.
Những thành
công mà Tổng thống Richard Nixon (1969-1974) đã làm được khi ngồi trong Nhà Trắng không thể phủ nhận, như: không chỉ là người đặt nền móng cho việc xây dựng quan hệ giữa Mỹ
với Trung Quốc mà còn đạt được một thỏa thuận cắt giảm vũ khí chiến lược
với Liên Xô. Tuy nhiên, trong thời gian nắm quyền, ông khiến cường quốc
số 1 thế giới sa lầy trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
Thêm vào đó, để
ngăn cản phong trào phản chiến và lực lượng chính trị đối lập là Đảng
Dân chủ, chính quyền Tổng thống Nixon đã tiến hành một vụ gián điệp
chính trị.
Nhân viên FBI
có tên G. Gordon Liddy - vốn là tư vấn tài chính cho Uỷ ban vận động tái
cử của Tổng thống Nixon được giao 250.000 USD để thực hiện hàng loạt
“chiêu bẩn” trong đó có gián điệp chính trị.
Một trong những
“phi vụ” lớn nhất mà Tổng thống Nixon chỉ huy đó là cho người đột nhập,
nghe lén và ăn cắp tài liệu văn phòng của Uỷ ban quốc gia của đảng Dân
chủ (DNC) trong toà nhà Watergate, Washington. Đây được coi là hành động
tệ nhất và không thể chấp nhận được đối với một Tổng thống Mỹ. Ông cũng
vì vụ đó mà phải từ chức. Do đó, nó trở thành vết nhơ làm ô danh tên
tuổi của ông trong lịch sử nước Mỹ.
Herbert Hoover là Tổng thống Mỹ thứ 31 nhiệm kỳ năm 1929-1933, đứng ở vị trí thứ 9 trong bảng xếp hạng ông chủ Nhà Trắng tồi tệ nhất lịch sử. Trước khi trở
thành Tổng thống, ông Hoover là một kĩ sư mỏ nổi tiếng thế giới và là
nhà cầm quyền theo chủ nghĩa nhân đạo. Khi giữ chức Bộ trưởng Thương mại
Mỹ dưới thời hai Tổng thống Warren Harding và Calvin Coolidge, ông đã
xúc tiến hiện đại hóa nền kinh tế. Trong cuộc bầu cử Tổng thống năm
1928, Hoover dễ dàng giành được sự đề cử của Đảng Cộng hòa và giành
chiến thắng trong cuộc đua cam go vào Nhà Trắng.
Những thách
thức mà ông phải đương đầu bắt đầu từ năm 1929 (năm đầu tiên trong nhiệm
kì Tổng thống) khi cuộc suy thoái kinh tế xảy ra. Ông đã cố gắng khắc
phục tình hình với nhiều biện pháp nhưng đều không có kết quả. Các nhà
lịch sử học nhất trí rằng, thất bại của Tổng thống Hoover trong cuộc bầu
cử Tổng thống nhiệm kỳ 2 năm 1932 phần lớn là do không giải
quyết được tình trạng suy thoái, thậm chí khiến nó trở nên tồi tệ hơn.
Thêm vào đó,
chính sách cấm nấu và bán rượu do ông đề xướng đã gặp phải làn sóng phản
đối mạnh mẽ. Ngoài ra, cử tri Mỹ không còn tin tưởng vào khả năng chèo
lái con thuyền đưa nước Mỹ đi lên bởi ông làm việc luôn theo các nguyên
tắc bảo thủ, khả năng giao tiếp kém… Đó là những nguyên nhân khiến ông
để mất chiếc ghế của mình trong cuộc đua vào Nhà Trắng nhiệm kỳ 2 vào
tay Tổng thống Roosevelt.
Đứng ở vị trí
thứ 10 là Tổng thống thứ 12 của nước Mỹ Zachary Taylor. Ông được đánh
giá là người đứng đầu Nhà Trắng có phong cách chính trị hài hòa nhất.
Sinh ra ở
Virginia và lớn lên ở Kentucky, Tổng thống Taylor từng là một người lính
dũng cảm đã chiến đấu hết mình và giữ chức chỉ huy trong cuộc chiến
tranh năm 1812 và chiến tranh Mexico.
Ông Taylor
không thích làm chính trị nhưng lại được đảng Whig bầu làm ứng cử viên
tranh cử Tổng thống năm 1848. Họ chọn ông làm người đại diện đảng chạy
đua vào Nhà Trắng bởi Taylor phản đối ý tưởng ly khai giữa các tiểu
bang. Trong cuộc chạy đua nước rút, ông đánh bại ứng cử viên Đảng Dân
chủ Lewis Cass và trở thành vị Tổng thống đầu tiên của Mỹ không từng giữ
bất kỳ chức vụ hành chính nào trước đó. Thêm vào đó, ông cũng là Tổng
thống đầu tiên và duy nhất đến từ tiểu bang Louisiana và là người miền Nam
cuối cùng đắc cử Tổng thống cho đến năm 1916. Khi đó, ông Woodrow Wilson cũng xuất
thân từ bang này và trở thành người đứng đầu Nhà Trắng năm 1916.
Trong thời gian
cầm quyền, Tổng thống Taylor thường bị công chúng chế giễu là người ít
học, thích đánh bóng tên tuổi của mình. Một số người nghĩ rằng, chính
sách chính trị không cứng rắn của ông là nguyên nhân dẫn đến sự bùng nổ
cuộc nội chiến hồi những năm 1850. Nếu có cơ hội để sửa chữa sai lầm, có lẽ Tổng thống Taylor đã có thể khiến cuộc chiến tranh đẫm máu không
xảy ra. Tuy nhiên, ông đã không may qua đời vì mắc phải bệnh
tả do ăn bát anh đào với sữa lạnh. Khi đó, ông mới làm chủ Nhà Trắng
được hơn 1 năm.