Tê giác đen và tê giác trắng có vẻ như đơn giản là chỉ khác nhau một chữ, nhưng độ hiếm của tê giác đen lại lớn hơn nhiều so với tê giác trắng. Loại tê giác này tuy gọi là tê giác đen nhưng nó không hề đen, toàn thân màu xám, nhỏ hơn tê giác trắng nhưng sức mạnh của nó không hề thua kém.
Tê giác đen chủ yếu sinh sống ở các khu vực chuyển tiếp giữa rừng và đồng cỏ và một số vùng cây bụi ở miền đông và miền trung châu Phi.
Chiều dài cơ thể của tê giác đen trưởng thành thường từ 3,5 mét đến 3,8 mét, nhưng cũng có những con lớn hơn. Trọng lượng từ 1.000 kg đến 1.500 kg, tuy rất nặng nhưng tê giác đen có thể chạy rất nhanh, đạt tốc độ tối đa 52 km/h.
Sừng của tê giác đen là điểm đặc biệt nhất của nó, nó có ba sừng, sừng trước thứ nhất có thể dài tới 1,5 mét, sừng sau thứ hai cũng có thể dài tới 50 cm và sừng thứ ba ngắn hơn. Sừng của tê giác đen cái thường dài và mỏng hơn sừng của con đực.Tê giác đen tuy thân thể cường tráng nhưng lại rất nhút nhát, không dám ra ngoài chạy nhảy, thích ngủ một chỗ rất lâu không cử động, hai ba con tê giác đen sẽ ôm nhau tạo thành lãnh thổ và sẽ không để bất cứ con mồi nào thoát khỏi khi xâm nhập lãnh thổ của chúng.Tê giác đen thường ra ngoài vào buổi sáng và buổi tối để tìm kiếm thức ăn, do khí hậu khô hạn của thảo nguyên châu Phi nên chúng phải uống nước ít nhất một lần mỗi ngày, nếu không sẽ khó sống sót. Hơn nữa, tê giác đen thường tấn công xe cộ và người, khi tức giận có thể lật cả xe ô tô nên hầu hết mọi người đều không dám gây sự với chúng.Năm 2011, tê giác đen phương Tây bị IUCN (Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế) tuyên bố tuyệt chủng. Vào năm 2006, người ta đã khuyến nghị tuyên bố tuyệt chủng loài tê giác đen phương Tây, nhưng IUCN đưa ra thời gian chờ đợi 5 năm đối với các danh sách tuyệt chủng để đảm bảo rằng chúng đã biến mất và không có cá thể mới nào được phát hiện.Lần cuối cùng người ta nhìn thấy tê giác đen phương Tây là vào năm 2003 trong môi trường sống duy nhất còn sót lại của chúng ở Cameroon. Những kẻ săn trộm đã bỏ đi những cá thể còn sót lại sau khi phạm vi sinh sống của chúng bị bóp nghẹt hơn nữa.
Tê giác đen và tê giác trắng có vẻ như đơn giản là chỉ khác nhau một chữ, nhưng độ hiếm của tê giác đen lại lớn hơn nhiều so với tê giác trắng. Loại tê giác này tuy gọi là tê giác đen nhưng nó không hề đen, toàn thân màu xám, nhỏ hơn tê giác trắng nhưng sức mạnh của nó không hề thua kém.
Tê giác đen chủ yếu sinh sống ở các khu vực chuyển tiếp giữa rừng và đồng cỏ và một số vùng cây bụi ở miền đông và miền trung châu Phi.
Chiều dài cơ thể của tê giác đen trưởng thành thường từ 3,5 mét đến 3,8 mét, nhưng cũng có những con lớn hơn. Trọng lượng từ 1.000 kg đến 1.500 kg, tuy rất nặng nhưng tê giác đen có thể chạy rất nhanh, đạt tốc độ tối đa 52 km/h.
Sừng của tê giác đen là điểm đặc biệt nhất của nó, nó có ba sừng, sừng trước thứ nhất có thể dài tới 1,5 mét, sừng sau thứ hai cũng có thể dài tới 50 cm và sừng thứ ba ngắn hơn. Sừng của tê giác đen cái thường dài và mỏng hơn sừng của con đực.
Tê giác đen tuy thân thể cường tráng nhưng lại rất nhút nhát, không dám ra ngoài chạy nhảy, thích ngủ một chỗ rất lâu không cử động, hai ba con tê giác đen sẽ ôm nhau tạo thành lãnh thổ và sẽ không để bất cứ con mồi nào thoát khỏi khi xâm nhập lãnh thổ của chúng.
Tê giác đen thường ra ngoài vào buổi sáng và buổi tối để tìm kiếm thức ăn, do khí hậu khô hạn của thảo nguyên châu Phi nên chúng phải uống nước ít nhất một lần mỗi ngày, nếu không sẽ khó sống sót. Hơn nữa, tê giác đen thường tấn công xe cộ và người, khi tức giận có thể lật cả xe ô tô nên hầu hết mọi người đều không dám gây sự với chúng.
Năm 2011, tê giác đen phương Tây bị IUCN (Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế) tuyên bố tuyệt chủng. Vào năm 2006, người ta đã khuyến nghị tuyên bố tuyệt chủng loài tê giác đen phương Tây, nhưng IUCN đưa ra thời gian chờ đợi 5 năm đối với các danh sách tuyệt chủng để đảm bảo rằng chúng đã biến mất và không có cá thể mới nào được phát hiện.
Lần cuối cùng người ta nhìn thấy tê giác đen phương Tây là vào năm 2003 trong môi trường sống duy nhất còn sót lại của chúng ở Cameroon. Những kẻ săn trộm đã bỏ đi những cá thể còn sót lại sau khi phạm vi sinh sống của chúng bị bóp nghẹt hơn nữa.