|
Tranh "Deux chiens de chasse liés à une souche" của Jacopo Bassano, treo tại bảo tàng Louvre. Ảnh: Fine Art Images.
|
Nữ nhà văn kiêm nghệ sĩ thị giác tên Claudie Hunzinger đã giành giải Femina cho cuốn tiểu thuyết tiếng Pháp thứ mười hai của mình, tác phẩm Un chien à ma table (tạm dịch: Con chó trên bàn).
Giải Femina là giải thưởng văn học với ban giám khảo toàn nữ và được xem là giải thưởng đối trọng với giải Goncourt. Theo tờ Le Monde, hội đồng chấm giải Femina năm nay đã chọn Hunzinger là người chiến thắng, với tỉ lệ bầu cao gấp đôi đối thủ là Grégoire Bouillier với tác phẩm Le cœur ne cède pas (tạm dịch: Trái tim không nhún nhường).
Đây không phải giải thưởng Prix Femina đầu tiên của nhà văn Hunzinger. Trước đó, tiểu thuyết gia 82 tuổi đã từng chiến thắng năm 2019 với cuốn tiểu thuyết Les grands cerfs (dịch: Những con nai lớn).
Tiểu thuyết Un chien à ma table là một tác phẩm nói về mối gắn kết chặt chẽ giữa văn học và môi trường qua câu chuyện một chú chó con đã làm thay đổi cuộc sống hàng ngày của cặp vợ chồng trẻ sống trong khu rừng xứ Vosges.
“Chú chó con ấy đến trú ẩn trong ngôi nhà này, và sự xuất hiện của nó sẽ tạo ra một tình bạn rất bền chặt, có thể nói là tình yêu”, Hunzinger chia sẻ với báo chí Pháp.
Un chien à ma table mang đến bức tranh của cặp vợ chồng Sophie và Grieg, một nhà văn và người bạn đồng hành của cô sống ở Bois-bannis. Cuộc sống thường nhật trong khu rừng hoang dã của họ lặp lại những thói quen tẻ nhạt, nhưng bức tranh này sẽ nhanh chóng mang màu sắc mới nhờ có sự xuất hiện của một chú chó con.
Cuốn tiểu thuyết được mô tả là đầy sức sống và tràn ngập hy vọng, ca ngợi sự kỳ vĩ của thiên nhiên, mang tính thời sự khi đặt trong tình hình hiện tại, khi mà công cuộc bảo vệ môi trường đang trở nên cấp bách.
|
Nữ nhà văn người Pháp Claudie Hunzinger. Ảnh: France Live.
|
Bên cạnh đó, Giải Femina hạng mục tác phẩm nước ngoài xuất sắc thuộc về tác phẩm La dépendance (tạm dịch: Sự phụ thuộc) của Rachel Cusk (Canada) do dịch giả Blandine Longre chuyển ngữ; Giải Femina hạng mục tiểu luận xuất sắc được trao cho Annette Wieviorka với Tombeaux: autobiographie de ma famille (tạm dịch: Lăng mộ: Tiểu sử gia đình tôi).