Nhân kỷ niệm 50 năm Ngày ký kết Hiệp định Paris (27/01/1972 – 27/01/2023), 48 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2023), Trung tâm Lưu trữ quốc gia III (Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước) phối hợp với Ban liên lạc Trại Davis, Hội Những người bạn di sản Việt Nam (FVH) và Quỹ Đổi mới sáng tạo Vingroup (VINIF) tổ chức Tọa đàm "Thi hành Hiệp định Paris - Câu chuyện của những nhân chứng lịch sử Trại Davis".
|
Các nhân chứng lịch sử tham dự buổi tọa đàm. |
Ngày 27/1/1973, sau gần 5 năm đàm phán, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký kết. Hiệp định gồm 9 chương, 23 điều với những nội dung chủ yếu là: Hoa Kỳ cùng các nước khác cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam. Hoa Kỳ hoàn toàn chấm dứt chiến tranh xâm lược, chấm dứt sự dính líu về quân sự và can thiệp vào nội bộ của miền Nam Việt Nam, tôn trọng quyền tự quyết và bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân miền Nam Việt Nam.
Tuy nhiên, để đảm bảo Hiệp định được các bên thực thi nghiêm túc, đầy đủ, Điều 16 của Hiệp định quy định, 4 bên gồm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa sẽ cử ngay đại diện để thành lập Ban Liên hợp quân sự 4 bên.
Ban Liên hợp quân sự có nhiệm vụ bảo đảm sự phối hợp hành động của các bên nhằm thực hiện các điều khoản quân sự mà Hiệp định đã quy định. Phía Việt Nam thành lập hai đoàn đại biểu quân sự gồm các tướng lĩnh, sỹ quan, cán bộ, chiến sỹ ưu tú của các lực lượng quân đội, công an, ngoại giao, an ninh Trung ương Cục miền Nam, thông tấn, báo chí và một số ban, ngành tham gia mặt trận đấu tranh ngoại giao quân sự thi hành Hiệp định Paris.
Đại tá Đào Chí Công, sỹ quan đối ngoại Văn phòng Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Trưởng ban liên lạc cựu chiến binh Ban Liên hiệp Quân sự Trại Davis cho hay, Trại Davis nguyên là một trại lính của quân đội Mỹ, nằm gần sát phía Tây Nam sân bay Tân Sơn Nhất (nay thuộc phường 4, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh). Trại Davis là nơi hai đoàn đại biểu quân sự miền Bắc và miền Nam (Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam) đóng quân. Chính quyền Sài Gòn cho rào kín nhiều tầng dây thép gai, cô lập hai phái đoàn ta với bên ngoài. Xung quanh trại, đối phương dựng 13 tháp canh, lính suốt ngày đêm chĩa súng vào trại thực hiện nhiều hoạt động đe dọa nhằm khủng bố tinh thần và gây sức ép với hai phái đoàn của ta. Dù đã lường trước những hiểm nguy khi đấu tranh chính trị ngay tại “hang ổ” của địch, nhưng Đại tá Đào Chí Công và các đồng đội không ngờ Chính quyền Sài Gòn bày ra rất nhiều “chiêu trò” gây khó khăn…
|
Trại Davis |
Tại Tọa đàm, nhân chứng lịch sử, Đại tá Đinh Quốc Kỳ, sĩ quan liên lạc phái đoàn; đồng chí Phạm Văn Lãi, người cắm cờ giải phóng trên đỉnh tháp nước Trại Davis; Nguyễn Hùng Trí, phiên dịch viên Phái đoàn... cũng đã chia sẻ rất nhiều câu chuyện về quá trình đấu tranh trực diện, khôn khéo và đầy quả cảm của các thành viên trong Ban Liên hợp quân sự với chính quyền Sài Gòn và phía Hoa Kỳ ngay từ khi hai phái đoàn của ta đặt chân đến Trại Davis.
Sự đấu tranh quyết liệt nhưng khôn khéo của hai phái đoàn ta đã góp phần thúc đẩy việc hoàn thành trao trả tù quân sự và dân sự của các bên bị bắt trong chiến tranh, buộc quân đội Hoa Kỳ và quân đồng minh phải rút hết ra khỏi miền Nam trong thời hạn 60 ngày, yếu tố quan trọng nhất làm chuyển biến tương quan lực lượng trên chiến trường có lợi cho cách mạng, tạo ra bước ngoặt quyết định và điều kiện chủ yếu để đi đến chiến thắng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Bà Stella Ciorra, Phó Chủ tịch Hội những người yêu di sản Việt Nam chia sẻ, khi tới tọa đàm này, bà mới biết đến địa danh Trại Davis có ý nghĩa như thế nào trong cuộc chiến tranh giải phóng của dân tộc Việt Nam. Theo bà Stella Ciorra, Việt Nam nên phục dựng lại, xây mới hoặc khôi phục một phần Trại Davis trên nền cũ, để nhắc nhớ về một di tích lịch sử quan trọng và giáo dục các bạn trẻ về sự kiện trọng đại, ý nghĩa của đất nước. Để những câu chuyện này sống mãi với thời gian và lan tỏa sâu rộng hơn nữa, Việt Nam cần xây dựng các bộ phim để công chiếu rộng rãi, giúp cho không chỉ các thế hệ trẻ tại Việt Nam hiểu hơn về lịch sử Việt Nam, mà còn giúp cho bạn bè, nhân dân trên toàn thế giới hiểu biết sâu sắc hơn về những khó khăn, gian khổ trong quá trình Việt Nam đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước.
Cũng tại buổi Tọa đàm này, các nhân chứng lịch sử và đại diện các gia đình có người thân tham gia phái đoàn ta tại Trại Davis đã trao tặng lại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III nhiều kỷ vật có giá trị lịch sử liên quan đến thời gian sống và làm việc tại Trại Davis, với mong muốn những kỷ vật này sẽ được bảo quản, lưu giữ với điều kiện tốt hơn, để chúng sống mãi với thời gian, đồng hành với sự phát triển của đất nước.