Tam Quốc – thời kỳ đầy biến động trong lịch sử Trung Quốc với những cuộc chiến tranh liên miên giữa 3 thế lực chính là Ngụy, Thục, Ngô – vẫn còn là đề tài hấp dẫn đến tận ngày nay. Trong đó, một trong những sự kiện nổi bật gây nhiều tranh cãi nhất là việc Lưu Bị chọn A Đẩu làm người kế vị.
Chinh chiến vất vả hơn 60 năm, Lưu Bị mới chiếm được đất Thục để làm cơ sở tranh thiên hạ với nước Ngụy của Tào Tháo và nước Ngô do Tôn Quyền lãnh đạo. Tuy nhiên cơ nghiệp cả đời của Lưu Bị lại bị người con trai A Đẩu dễ dàng đánh mất.
Theo Tam Quốc Chí của sử gia Trần Thọ, A Đẩu chào đời năm 207 khi Lưu Bị đã 47 tuổi và đang phải nương nhờ người họ hàng là Lưu Biểu ở Kinh Châu. Cùng với những thăng trầm trong sự nghiệp của cha, tuổi thơ của A Đẩu cũng trải qua rất nhiều biến cố.
Năm 208, Lưu Biểu chết, Tào Tháo đem quân chiếm Kinh Châu. Lưu Bị đối địch với Tào Tháo lúc này đang hùng mạnh liền bị đánh cho đại bại tại trận Đương Dương – Trường Bản. Lưu Bị rút chạy, bỏ lại mẹ con A Đẩu ở phía sau. Rất may, A Đẩu và mẹ là Cam phu nhân được mãnh tướng Triệu Vân giải cứu.
Lưu Bị sau đó lại lấy em gái Tôn Quyền là Tôn phu nhân. Tôn phu nhân nhân lúc Lưu Bị đi vắng khỏi Kinh Châu bèn đem A Đẩu trốn về đất Ngô. Triệu Vân và người em kết nghĩa của Lưu Bị là Trương Phi biết tin, vội vàng đem quân ra chặn sông, cướp được A Đẩu về.
Sách Ngụy lược của nhà Ngụy cũng có đoạn chép về thân thế của A Đẩu như sau: "Trước Bị ở Tiểu Bái, không ngờ quân Tào Công (đánh) tới, kinh hoảng bỏ cả gia quyến, sau chạy vào Kinh Châu. Thiện lúc đó mới vài tuổi, thay đổi tên họ bỏ trốn, theo người ta chạy sang phía tây vào địa phận Hán Trung rồi bị họ đem bán. Đến năm Kiến An thứ mười sáu, Quan Trung loạn lạc, một người Phù Phong lưu tán chạy nạn vào Hán Trung mua được Thiện. (Người ấy) hỏi ra, biết Thiện là con nhà tử tế bèn nuôi như con, còn giúp (Thiện) lấy vợ, sinh được một con".
Tuy nhiên, đối chiếu với Tam Quốc Chí của Trần Thọ, phần tư liệu lịch sử này không mấy tin cậy. Sau biến cố ở Đương Dương – Trường Bản, A Đẩu quả thật đã được Triệu Vân phá vây giải cứu, đưa về đoàn tụ với Lưu Bị.
Từng vượt qua nhiều gian truân ngay từ khi còn nhỏ, nhưng khi lớn lên, A Đẩu lại tỏ ra mình là người có tư chất tầm thường nếu không muốn nói là bất tài khi so sánh với người cha anh dũng Lưu Bị. Dẫu vậy, trong số các anh em, ông vẫn được Lưu Bị chọn làm người kế nghiệp, theo Qulishi.
Tam Quốc Chí chép Lưu Bị có 4 người con là Lưu Phong, Lưu Thiện (A Đẩu), Lưu Lý và Lưu Vĩnh. Trong đó, Lưu Phong là con nuôi, cũng là người thường xuyên theo Lưu Bị nam chinh bắc chiến, lập không ít công lao.
Phần "Lưu Phong truyện" trong Tam Quốc Chí chép Lưu Phong vốn mang họ Khấu. Lưu Bị khi ở Kinh Châu, vì chưa có người nối dõi nên nhận Lưu Phong làm con nuôi, đổi cả họ. Như vậy, Lưu Bị ban đầu đã từng có ý muốn Lưu Phong tiếp quản sự nghiệp của mình.
Khi Lưu Bị đánh chiếm đất Thục, Lưu Phong mới hơn 20 tuổi, rất giỏi võ nghệ, có sức mạnh hơn người nên được cầm quân cùng Gia Cát Lượng, Trương Phi. Lưu Phong lập nhiều chiến công, được Lưu Bị phong làm Phó quân Trung lang tướng.
Tuy nhiên, trong lúc được Lưu Bị tín nhiệm nhất, Lưu Phong lại mắc sai lầm tai hại là không dẫn binh tiếp ứng Quan Vũ, để mất Kinh Châu. Lưu Bị nghe tin Quan Vũ gặp nạn, tức giận ban tội chết cho Lưu Phong.
Theo Sohu, việc Lưu Phong bị xử tử có sự tham mưu của Gia Cát Lượng. Quân sư Khổng Minh lo Lưu Phong tài năng, lại lớn tuổi hơn các con ruột của Lưu Bị nên có thể gây ra tranh chấp sau này. Như vậy, chỉ còn có Lưu Lý và Lưu Vĩnh là có cơ hội cạnh tranh ngôi Hậu chủ với A Đẩu.
Các tài liệu lịch sử đến nay ghi chép rất ít về hai người con trai Lưu Lý và Lưu Vĩnh của Lưu Bị. Theo Tam Quốc Chí, Lưu Lý tên chữ Phụng Hiếu là em trai A Đẩu. Năm 221, Lưu Bị lập Lưu Lý làm Lương Vương, ban cho vùng đất phía Đông nước Thục để cai quản. Năm 245, Lưu Lý chết, con trai là Lưu Dận kế thừa vương vị.
Người em còn lại của A Đẩu là Lưu Vĩnh. Lưu Vĩnh được Lưu Bị phong cho làm Lỗ Vương, ban cho một vùng đất để cai trị. Lưu Vĩnh có thù oán rất sâu với Hoàng Hạo – hoạn quan được Hậu chủ A Đẩu sủng ái nhất. Hoàng Hạo không ít lần vu cáo, hãm hại Lưu Vĩnh khiến A Đẩu xa lánh em trai đến mức hàng chục năm 2 người không hề gặp mặt.
Sau này nước Thục bị diệt, Lưu Vĩnh về Lạc Dương sinh sống, được nhà Tấn phong làm Phụng xa Đô Úy. Mối quan hệ giữa Lưu Vĩnh và anh trai vẫn hiềm khích cho tới lúc chết.
Hoàng Hạo không chỉ khiến anh em A Đẩu trở mặt với nhau mà còn là nguyên nhân hàng đầu khiến cơ đồ nước Thục do Lưu Bị khổ công gây dựng tiêu vong. Theo Tam Quốc chí, Hoàng Hạo có tài nịnh bợ nên rất được Hậu chủ A Đẩu sủng ái.
Sau khi Gia Cát Lượng chết, Hoàng Hạo dần nắm hết quyền hành, làm nghiêng đổ triều Thục Hán. Khương Duy – học trò của Gia Cát Lượng – ghét Hoàng Hạo chuyên quyền bèn tâu với A Đẩu đem giết đi. Hậu chủ nói:
"Hạo chỉ là đưa tiểu thần để sai khiến. Trước đây Đổng Doãn cứ nghiến răng căm tức, ta vẫn hận việc ấy. Ngươi cần gì phải để ý".
Đến đây, có thể thấy A Đẩu đã đi vào vết xe đổ dẫn đến mất nước của các vị vua cuối thời Hán, đó là quá tin dùng hoạn quan.
Để vỗ về Khương Duy, A Đẩu sai Hoàng Hạo đến tạ lỗi. Tuy nhiên, Khương Duy sợ bị Hoàng Hạo trả thù, phải tạm lánh khỏi kinh thành, dừng chiến tranh với nhà Ngụy. Hoàng Hạo vì vậy càng trở nên lộng quyền.
Năm 263, Tư Mã Chiêu sai hai tướng Ngụy là Chung Hội và Đặng Ngải đem quân đánh nước Thục. Hoàng Hạo cho gọi vài người đồng cốt đến, phán rằng quân Ngụy sẽ không tới, A Đẩu cũng tin. Đến khi quân Ngụy đánh đến sát Thành Đô, A Đẩu mới tìm cách chống trả thì đã quá muộn, nước Thục diệt vong.
Nhiều người cho rằng chọn A Đẩu làm người kế vị là một trong những quyết định sai lầm lớn nhất của Lưu Bị. Tuy nhiên, Lưu Bị cũng có những lý do của riêng mình, theo Qulishi.
Trước hết, so về tuổi tác, giữa những người con ruột của Lưu Bị, A Đẩu lớn tuổi hơn tất cả. Người Trung Quốc thời phong kiến thường có quan điểm lập con trưởng chứ không lập con thứ. Vì lớn tuổi hơn Lưu Lý và Lưu Vĩnh nên A Đẩu được Lưu Bị giao phó trọng trách là quyết định an toàn và dễ hiểu.
Trước đó, Lưu Bị có thể cũng đã thấy tấm gương anh em bất hòa, xâu xé lẫn nhau trong gia đình Viên Thiệu – một thế lực cát cứ lớn trong thời Tam Quốc. Vì yêu quý người con thứ 3 là Viên Thượng, Viên Thiệu đã để Thượng kế nghiệp mình. Người con trưởng của Viên Thiệu là Viên Đàm không phục, dẫn quân đánh nhau với Viên Thượng. Kết quả là vì nội bộ lục đục, Viên Thượng và Viên Đàm dễ dàng bị Tào Tháo đánh bại, thu toàn bộ đất đai.
Rút kinh nghiệm từ chuyện gia đình Viên Thiệu, Tào Tháo dù rất yêu quý người con thứ là Tào Thực nhưng vẫn quyết định truyền ngôi cho con trưởng Tào Phi để tránh xảy ra tranh chấp. Một người từng trải như Lưu Bị chắc chắn cũng hiểu đạo lý này.
Thứ hai, việc A Đẩu được kế nghiệp Lưu Bị có sự ủng hộ đặc biệt quan trọng của thừa tướng Gia Cát Lượng. Phần Tiên chủ truyện của Tam Quốc chí có đoạn ghi lại di chiếu Lưu Bị viết cho A Đẩu như sau:
"Thừa tướng khen khanh sáng suốt hiểu biết, tiến bộ rất mau, vượt quá ước vọng của y, nếu thực được như thế, ta sao còn phải lo lắng nữa. Gắng lên, gắng lên. Chớ vì điều ác nhỏ mà làm, chớ vì điều thiện nhỏ mà không làm. Chỉ có hiền chỉ có đức, mới có thể thu phục được người. Cha các ngươi đức bạc, chớ nên bắt chước."
Di chiếu này do chính Gia Cát Lượng tuyên đọc. Qua đó có thể thấy thừa tướng nước Thục một lòng ủng hộ A Đẩu lên ngôi.
Gia Cát Lượng là trọng thần số một của Lưu Bị. Không chỉ nắm quyền chỉ huy các chiến dịch quân sự, ông còn chịu trách nhiệm chính trong việc chăm lo, sửa sang chính trị cho nước Thục. Một khi Khổng Minh Gia Cát Lượng cũng phải khen A Đẩu là người "sáng suốt hiểu biết", "vượt quá ước vọng" thì ngôi vị Hậu chủ chắc chắn Lưu Bị không thể giao vào tay người khác.
Nhận xét của Gia Cát Lượng về A Đẩu cũng không phải sai lầm. Bằng chứng là hơn 30 năm sau khi Gia Cát Lượng qua đời, Hậu chủ A Đẩu vẫn lãnh đạo một nước Thục yên ổn, không xảy ra biến cố gì lớn. Chủ trương chăm lo đời sống nhân dân, khai khẩn ruộng đất của A Đẩu cũng giảm bớt rất nhiều gánh nặng cho người dân nước Thục.
Tuy nhiên, việc tin dùng mù quáng Hoàng Hạo dẫn đến mất nước quả thực là trách nhiệm của A Đẩu. Xét cho cùng, A Đẩu không hợp làm hoàng đế vào thời chiến mà chỉ có thể là một ông vua an nhàn, hưởng lạc trong cảnh thái bình mà thôi
(Theo Sohu).