Sự việc này đến nay vẫn còn là bí ẩn không lời giải.
Vào những năm đầu của thập niên 1970, các nhà khảo cổ muốn tìm kiếm những thứ còn sót lại trong lăng mộ cũng như khám phá bí mật mà nhà vua đã mang theo. Họ hy vọng rằng lăng mộ này không bị cướp phá trong chiến tranh thế giới thứ hai. Đây cũng là điều từng xảy ra với nhiều ngôi mộ khác ở Ba Lan.
Do đó, khi nhận được giấy phép cho mở mộ vua Kazimierz, các nhà khảo cổ thời đó đã rất phấn khích. Họ nhanh chóng bắt tay vào việc và không mảy may nghĩ ngợi đến những lời nguyền, thứ từng là nỗi kinh hoàng cho bao người ở Ai Cập cách đó 50 năm. Đức hồng y Karol Wojtyla, tổng giám mục Krakow thời đó (sau này là giáo hoàng Giaon Phaolo II) là người chịu trách nhiệm cuối cùng cho giấy phép này.
Ngày 13/4/1973, các nhà nghiên cứu tiến hành mở lăng mộ. Họ tìm thấy một chiếc quan tài bằng gỗ đã mục nát. Vài ngày sau đó, bốn người trong số 12 nhà khảo cổ đã qua đời.
Những năm sau đó, số người còn lại trong đoàn khảo cổ cũng lần lượt qua đời. Họ chết vì ung thư hoặc vài bệnh khác. Tổng cộng có tất cả 15 người, gồm những người tiếp xúc trực tiếp với ngôi mộ và những người làm trong phòng thí nghiệm, tiếp xúc với xác chết, đã qua đời.
Sự kiện này đã trở nên rúng động khắp đất nước. Thông tin về ngôi mộ như những điều đáng sợ liên quan tới nó luôn là đề tài bàn tán số một đối với người dân trong nước.Người ta nhắc đến ngôi mộ cổ với những điều đáng sợ, truyền tai nhau về những điều bí ẩn. Không ít người tin rằng, các nhà khoa học đã gặp phải lời nguyền của vị vua quá cố.
Sau nhiều năm, các nhà khoa học đã phát hiện ra sự thật phía sau những cái chết tưởng như kỳ quái này. Các nhà khoa học khi khảo cổ đã tiếp xúc với một loại vi nấm gây bệnh mang tên Aspergillus flavus. Nấm này gây nhiễm trùng, bệnh suyễn, dị ứng ở một số người. Với những người có miễn dịch kém, Aspergillus flavus có thể trở thành nguyên nhân gây chết người.Người ta cũng tin rằng, các nhà khảo cổ năm đó có những người đã già, yếu và cơ thể không đủ khỏe mạnh để chống lại loài nấm đáng sợ này.
Nói tới vị vua trên, theo Ancient Origins, vua Casimir sinh ngày 30/11/1427, là con thứ ba và con trai út của vua Władysław II Jagiełło và người vợ thứ tư, Sophia xứ Halshany tức Belarus ngày nay. Ông được phong là Đại Công tước của Litva năm 1440 và vua Ba Lan từ năm 1447 cho đến khi mất.
Casimir rất nổi tiếng trong lịch sử khi trở thành một trong những nhà lãnh đạo và hoạt động chính trị thành công nhất của Ba Lan. Trong thời gian ông trị vì, Ba Lan đã đánh bại Giáo binh đoàn Teuton sau 13 năm (1454 - 1466) và sáp nhập nước Phổ vào lãnh địa Ba Lan.
Sau chiến tranh, Casimir phục hồi lại Pomerania và các thành phố quan trọng gần phía nam bờ biển Baltic - Gdańsk. Nhờ những hành động này, vua Casimir được xem là một trong những vị vua vĩ đại nhất thời kỳ đó, đưa triều đại Jagiellon trở thành hoàng gia hàng đầu châu Âu. Dưới sự cai trị của Casimir, Ba Lan trở thành quốc gia giàu có ở châu Âu.
Casimir mất ngày 7/6/1492 ở tuổi 65 trong một lâu đài tại thành phố Grodno. Đám tang diễn ra tại lâu đài Wawel ở Kraków miền nam Ba Lan. Ông được chôn cất trong một chiếc quan tài bằng gỗ đơn giản và phủ vải liệm xa xỉ. Do quá trình phân hủy diễn ra quá nhanh, những người chôn cất quyết định rắc muối canxi lên thi thể của nhà vua.