Bao Công húy là Bao Chửng (11/4/999 - 20/5/1062), còn được biết đến với tên Bao Thanh Thiên. Ông nổi tiếng là một vị quan “thanh liêm, chấp pháp nghiêm minh, không khiếp sợ quyền uy hay vị nể tư tình” dưới thời hoàng đế Tống Nhân Tông (1022-1063).
Trong suốt thời gian làm quan, ông luôn nỗ lực làm việc chống lại nạn tham nhũng, giải quyết nhiều vụ án phức tạp, thẳng tay trừng phạt những tên tham quan, lợi dụng chức quyền làm điều sai trái. Ông nhận được sự tôn trọng của hầu hết nhân dân thời bấy giờ. Chính sự thẳng thắn, vị tha cũng như thái độ phán xét vô tư của ông giúp nhân dân tôn ông là Bao Thanh Thiên (Bầu trời thanh bạch).
|
Chân dung Bao Công. Ảnh: Baidu. |
Thân thế
Bao Công người Hợp Phì, Lư Châu (nay là thành phố Hợp Phì, tỉnh An Huy, Trung Quốc). Ông vốn được sinh ra trong một gia đình có truyền thống hiếu học, cha ông là Bao Nghi, từng giữ chức đại phu trong triều. Sau khi qua đời, Bao Nghi được phong Hình bộ thị lang.
Từ khi còn nhỏ, Bao Công đã nổi tiếng là đứa con hiếu thảo, sống mực thước. Năm 1027, ông bộc lộ tài năng của mình, thi đậu tiến sĩ, được cử đến nhậm chức Tri huyện Kiến Xương (nay thuộc tỉnh Giang Tây), nhưng vì song thân già yếu, ông không thể làm quan xa nên xin khoan nhận việc, để ở nhà chăm sóc cho cha mẹ.
Sau khi cha mẹ qua đời, ông mới bắt đầu phục vụ triều đình. Tiếng lành đồn xa, nhà vua biết được Bao Công là một vị quan thanh liêm, liền triệu ông về kinh giao cho chức Trung thừa, rồi lần lượt thăng các chức Giám sát ngự sử, Trực học sĩ Long đồ các, Tam tư Hộ bộ Phó sử, đến Thiên Chương các Thị chế.
Hình tượng và cuộc đời
Bao Công trở thành biểu tượng văn hóa của công lý và sự thanh liêm thời kỳ Trung Quốc phong kiến.Trên thực tế, mặt Bao Công không hề đen và cũng không có vết sẹo hình trăng khuyết trên vầng trán. Ông thậm chí còn trắng trẻo trẻo và có phần thư sinh.
Tạo hình mặt đen mà chúng ta thường bắt gặp trên các bộ phim thực chất là do ảnh hưởng của kinh kịch, hát bội. Mặt trắng là đại diện cho kẻ tiểu nhân, mặt đỏ là đại diện cho nghĩa khí, trung nghĩa, mặt đen đại diện cho nghiêm túc, công chính liêm minh, quân tử. Do đó, mặt Bao Công được tô đen để khắc họa bản tính liêm chính của ông.
Tương truyền, Bao Công là một vị thần một trong 7 vị Bắc Đẩu tinh quân, giáng trần, tên là Văn Khúc Tinh Quân. Vì vậy, ngoài việc xử án ban ngày ở dương gian, ban đêm, ông còn phải xử án ở âm phủ. Vầng trăng trên trán ông tựa như ánh trăng soi sáng công lý ngay cả ở những nơi tăm tối nhất.
Dù là một người được lòng vạn dân, nhưng Bao Công là một người rất nghiêm khắc với gia đình. Dưới ảnh hưởng và sự dạy dỗ của cha, các con của ông cũng sống rất giản dị, đúng chuẩn mực. Bao Công từng tuyên bố với các con của ông rằng: “Nếu bất kỳ ai trong các con vi phạm luật lệ, đều không được chôn cất trong lăng mộ của tổ tiên”.
Năm 1052, vì giúp đỡ người thân là Trương Nghêu Tá ông làm phật lòng Hoàng đế và vị thuyên chuyển công tác, 4 năm sau mới được trở về. Chức vụ cao nhất là Bao Công đảm nhận ở cuối đời là Khu mật Phó sứ, tương đương với chức Phó tể tướng.
Theo sử sách thống kê, trong suốt cuộc đời làm quan của mình, ông trừng trị không dưới 30 người thuộc dòng dõi quyền quý, hoàng thân quốc thích, thậm chí ngay cả quốc trượng Trương Nghiêu Tá - bố đẻ của Trương quý phi được vua Nhân Tông sủng ái cũng bị Bao Chửng đàn hặc mà mất chức.
Những năm tháng cuối đời
Năm 1062, ông lâm bệnh và mất ở nơi làm việc, hưởng thọ 64 tuổi. Tuy vậy, cái chết của ông hiện vẫn còn là một bí mật, do ông chỉ lâm bệnh trong vỏn vẹn 1 ngày. Nhiều người nhận định rằng, sự ra đi của ông có liên quan đến thứ “thuốc bổ” mà Hoàng thượng gián tiếp ban cho. Nhiều người nghi ngờ rằng, những thái y do ghen ghét Bao công, nên cố tình cho thêm thành phần độc hại vào trong thuốc, khiến bệnh tình của ông trở nên trầm trọng hơn.
Sau khi ông mất, Hoàng đế Tống Nhân Tông đích thân làm chủ lễ truy điệu, phong cho Bao Công là Lại bộ Thượng thư, ban cho thụy hiệu “Hiếu Túc”, có nghĩa là hiếu đạo và thiết diện vô tư và còn phái một đoàn ngự lâm quân hộ tống linh cửu ông về mai táng ở quê nhà ông.
Về sau, khi các nhà khoa học tiến hành xét nghiệm những mảnh xương của Bao Công, phát hiện hàm lượng thủy ngân, sắt và canxi trong xương ông cao hơn nhiều so với xương của người hiện đại, trong khi đó hàm lượng chì và arsen (thạch tín) lại thấp hơn người thường. Mặc dù vậy, thời xưa chủ yếu dùng độc dược là tì sương (thạch tín) và chu sa (thủy ngân). Do đó, kết quả này loại trừ khả năng Bao Công bị trúng độc cấp tính do uống phải thuốc có chứa thạch tín.