Những cái chết bằng lưỡi lê
Quân Mỹ lắm bom nhiều pháo. Giao chiến với bộ binh Mỹ không đơn giản như với quân Pháp vì hỏa lực nhiều tầng nhiều lớp của họ. Trên không có máy bay ném bom, dưới đất là súng đạn của binh lính và bất thần đạn pháo từ những nơi rất xa câu đến theo tọa độ rất chính xác.
Ngay những lần đối mặt đầu tiên, chỗ mạnh và chỗ yếu của quân Mỹ đã được những người lính Việt Nam nhận thức rõ ràng. Trong cuốn hồi ký Chiến trường mới của Thượng tướng Nguyễn Hữu An có ghi lại nhận định của những người lính sau lần đầu tiên giáp mặt quân Mỹ. Hồi ký viết: “Anh Chu Huy Mân gặp một số chiến sĩ từ trận đánh trở về, anh hỏi: các cậu thấy đánh Mỹ có đặc điểm gì? Anh em không nhận ra vị tướng của mình, vì anh không đeo quân hàm và không ai giới thiệu nên họ nói năng thoải mái. Một chiến sĩ nói: đánh nhau với bọn bộ binh Mỹ cũng dễ thôi, nhưng nó lắm máy bay, lắm bom, lắm pháo quá, không lúc nào ngớt, nhức đầu nhức óc”.
Lý thuyết tác chiến Mỹ cho rằng, mỗi khi đội quân của họ bị đối phương dồn ép, họ sẽ dùng máy bay ném bom, pháo bắn tới tạo thành một bức tường lửa để ngăn cản đối phương. Trong thời gian đó, bộ binh của họ sẽ tranh thủ củng cố lại thế trận để phản công giành lại chủ động và kết thúc trận đánh.
Ngược lại, quân ta vũ khí hạng nặng ít hơn. Hoàn toàn không có máy bay ném bom, pháo bắn yểm trợ cũng rất ít. Do đó, người lính trên chiến trường chủ yếu trông vào chính vũ khí nhẹ của mình và đồng đội. Nếu so sánh về vũ khí trang bị theo sách vở thì các đội quân của ta chẳng bao giờ dám đương đầu với bộ binh Mỹ.
Tuy nhiên, quân ta nhanh chóng nhận ra rằng, đánh giáp lá cà với lưỡi lê và lựu đạn là một sách lược có lợi để đối phó với tình hình. Lối đánh này của quân ta đã có truyền thống từ cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp và là một trong những nỗi ám ảnh với lính Pháp. Trong hồi ký về
Điện Biên Phủ, đại tướng
Võ Nguyên Giáp đã dẫn lời khai của những tên tù binh Pháp ở Điện Biên nói rằng, trong những cái chết ở chiến trường, binh lính của họ sợ nhất là chết bằng lưỡi lê khi đối mặt với Việt Minh. Giờ đây, nỗi kinh hoàng ấy, người Mỹ lại tiếp tục được nếm trải.
Quan trọng hơn, lối đánh gần giúp hạn chế tác dụng của bom pháo Mỹ. Khi quân hai bên ở quá gần nhau, việc ném bom sát thương vào bất kỳ khu vực nào cũng đều gây ra thương vong cho cả hai phía.
Ngay trong trận đụng độ lớn đầu tiên giữa lính Mỹ và quân chính quy của ta ở thung lũng Ia-Drang vào tháng 11/1965, lối đánh này đã khiến quân Mỹ lúng túng. Hồi ký của tướng An viết: “Sau khi dùng hỏa lực súng cối chế áp ngắm vào đội hình địch, quân ta dũng cảm đồng loạt xung phong chia cắt đội hình và đánh giáp lá cà với địch. Cả đôi bên lúc này đội hình xen kẽ nhau đến độ chỉ cho phép dùng tiểu liên bắn găm, dùng lưỡi lê, lựu đạn mà chiến đấu”.
|
Lính Mỹ trong trận Ia-Drang. Ảnh: Awesomestories.com. |
Ở phía bên kia, ký giả Gallo Way, người đi cùng đơn vị lính Mỹ mô tả về lối đánh hiểm của đối phương: “Tình hình đã xấu lại trở nên xấu hơn. Đến bây giờ quân Bắc Việt Nam đã có mặt ngay trong hàng ngũ quân Mỹ và trên các ngọn cây cao. Bất cứ ai vận động lên đều bị bắn chết. Thiếu tá Henri và trắc thủ pháo binh đã cố gắng dùng điện đài của họ để gọi pháo binh và không quân chi viện. Điều này làm giảm bớt sự chết chóc, nhưng với đội hình kéo dài hơn 100 Yard giữa bãi cỏ cao rậm thì các quả đạn pháo và napan sát thương quân Bắc Việt Nam đồng thời cũng sát thương cả quân Mỹ”.
Chứng minh cho điều này, vào năm 1993, tướng Harold Moore, người trực tiếp chỉ huy đơn vị tham chiến trong trận Ia-Drang khi trở lại thăm chiến trường, đã chỉ cho tướng Nguyễn Hữu An vị trí mà 2 quả bom Napan của không quân Mỹ đã ném đúng đội hình bộ binh Mỹ khiến nhiều lính Mỹ chết cháy.
Trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, chiến thuật đánh gần được toàn quân ta vận dụng vào mọi trận đánh dù là chiến đấu trên bộ hay trên không. Lối đánh đó được tóm tắt trong phương châm nổi tiếng “nắm thắt lưng địch mà đánh”.
Những cái chết bất thình lình
Mặc dù cái chết đến từ từ trong đau đớn khi dính phải lưỡi lê của đối phương đã ghê gớm nhưng ít ra lính Mỹ ở ngoài chiến trường còn nhìn thấy được nguyên nhân. Trong khi đó, nhiều trường hợp viên chức, sĩ quan Mỹ đã chết ngay giữa Sài Gòn và các thành phố lớn khác mà không kịp hiểu nguyên nhân. Những cái chết bất thình lình đó mới là điều đáng sợ nhất khi người Mỹ đến Việt Nam.
Kẻ gây ra nỗi ám ảnh đó, không ai khác chính là Biệt động Sài Gòn. Theo thống kê sơ lược, trong suốt cuộc chiến, Biệt động đã liên tục tấn công hàng nghìn trận, gây thương vong cho hàng chục nghìn lính và quan chức Mỹ và cả đám tay sai ác ôn của chúng.
Với những trận đánh được nêu trong cuốn Biệt động Sài Gòn – Những chuyện giờ mới kể, ta thấy nét đặc trưng của Biệt động là lối đánh bí mật, bất ngờ. Giữa một thành phố vài triệu dân, Biệt động bình thường như bất kỳ ai. Họ âm thầm nghiên cứu các mục tiêu và nghĩ ra các kế hoạch tấn công vượt ra ngoài mọi sự dự liệu của kẻ địch.
Trận tấn công vào cư xá Brink nơi đóng hàng ngàn sĩ quan Mỹ trong dịp Giáng sinh năm 1964 là một ví dụ. Những chiến sĩ Biệt động đóng giả sĩ quan Sài Gòn để mang một ô tô chứa hơn 100 kg thuốc nổ vào trong gầm tòa cư xá rồi đặt kíp nổ và đàng hoàng đi ra ngoài. Trận đánh này đã khiến 175 trong số hơn 200 sĩ quan Mỹ có mặt ở cư xá thương vong. Tòa cư xá đồ sộ bị thổi rỗng 3 tầng dưới.
Cũng có khi chiến sĩ Biệt động táo bạo đánh vào những nơi được bảo vệ nghiêm ngặt nhất như Tòa Đại sứ Mỹ tháng 3/1965 hoặc trận đánh vào trụ sở Tổng nha Cảnh sát của chính quyền Sài Gòn tháng 8/1965. Những trận này, Biệt động bất thần ập vào mục tiêu kích nổ khối thuốc đặt trên ô tô rồi rút lui ngay trước mắt đông đảo cảnh sát, mật vụ của Sài Gòn.
Ngoài ra, bất kỳ ở nơi đâu: trên phố, trong quán ăn, rạp hát… lính Mỹ đều là mục tiêu tấn công của Biệt động bằng lựu đạn, mìn khiến bọn chúng luôn nơm nớp lo sợ. Với những tên tay sai đắc lực hoặc những tên chỉ điểm đầu hàng, nhiều lúc Biệt động đột nhập hẳn vào nhà riêng, đọc lệnh tử hình của Cách Mạng và kết liễu rất gọn gàng.
Những phi vụ của Biệt động Sài Gòn khiến từ tướng tá đến binh lính Mỹ không bao giờ yên tâm mặc dù ở ngay trong trụ sở hay căn cứ được bảo vệ nghiêm ngặt của mình. Đến nỗi, các lính Mỹ phải thốt lên rằng, ở xứ sở này, cái chết có thể đến bất kỳ lúc nào, ở bất kỳ đâu.