Cáo tai to châu Phi, hay còn gọi là cáo Fennec. Đây là loài cáo sa mạc nhỏ hoạt động về đêm, được tìm thấy ở sa mạc Sahara của Bắc Phi. Tính năng đặc biệt nhất của loài vật này là đôi tai lớn bất thường, phục vụ cho việc tản nhiệt. Bộ lông, tai và chức năng thận của cáo Fennec phát triển thích nghi với môi trường nhiệt độ cao, ít nước ở sa mạc. Ngoài ra, thính giác của cáo Fennec khá nhạy bén có thể nghe con mồi di chuyển dưới lòng đất. Cáo đỏ là loài lớn nhất chi Cáo. Ngoài kích thước lớn, cáo đỏ còn được phân biệt với các loài cáo khác bởi khả năng thích ứng nhanh chóng với môi trường mới. Mặc dù có tên là cáo đỏ, loài cáo này thường có các cá thể màu sắc khác, bao gồm bạch tạng và hắc tố. Cáo đỏ có cơ thể thuôn dài và các chi tương đối ngắn. Đuôi dài hơn một nửa chiều dài cơ thể. Cáo xám là một trong hai thành viên duy nhất trong chi Urocyon, chi được xem là nhóm nguyên thủy nhất của các loài trong họ chó còn sinh tồn. Cáo xám được phân biệt bởi lớp lông màu muối hạt tiêu và đuôi sọc đen. Khả năng trèo cây của chúng rất tốt. Cáo lông bạc có ngoại hình gần giống như loài cáo đỏ, chỉ khác nhau ở biến sắc tố (do chất trong tế bào da tạo thành). Bộ lông của cáo bạc được cho là một trong những loại lông có giá trị nhất. Hiện loài này đang được lai tạo và nuôi để lấy lông. Cáo Bắc cực không chỉ có lông màu trắng, thực tế trong mùa hè khi tuyết tan, lông của chúng có thể đổi sang màu tối để hòa nhập với môi trường. Cáo Bắc cực là loài ăn tạp, ăn hầu như bất cứ thứ gì chúng có thể tìm thấy - từ động vật gặm nhấm, chim hoặc cá, rong biển và xác bỏ thừa của những kẻ săn mồi lớn hơn. Bộ lông trắng muốt là đặc trưng dễ dàng nhận ra nhất của cáo Bắc cực. Cáo chữ thập (cross fox) là những cá thể biến thể màu sắc của loài cáo đỏ. Cáo chữ thập phổ biến nhất ở Bắc Mỹ.
Cáo tai to châu Phi, hay còn gọi là cáo Fennec. Đây là loài cáo sa mạc nhỏ hoạt động về đêm, được tìm thấy ở sa mạc Sahara của Bắc Phi. Tính năng đặc biệt nhất của loài vật này là đôi tai lớn bất thường, phục vụ cho việc tản nhiệt.
Bộ lông, tai và chức năng thận của cáo Fennec phát triển thích nghi với môi trường nhiệt độ cao, ít nước ở sa mạc.
Ngoài ra, thính giác của cáo Fennec khá nhạy bén có thể nghe con mồi di chuyển dưới lòng đất.
Cáo đỏ là loài lớn nhất chi Cáo. Ngoài kích thước lớn, cáo đỏ còn được phân biệt với các loài cáo khác bởi khả năng thích ứng nhanh chóng với môi trường mới.
Mặc dù có tên là cáo đỏ, loài cáo này thường có các cá thể màu sắc khác, bao gồm bạch tạng và hắc tố.
Cáo đỏ có cơ thể thuôn dài và các chi tương đối ngắn. Đuôi dài hơn một nửa chiều dài cơ thể.
Cáo xám là một trong hai thành viên duy nhất trong chi Urocyon, chi được xem là nhóm nguyên thủy nhất của các loài trong họ chó còn sinh tồn.
Cáo xám được phân biệt bởi lớp lông màu muối hạt tiêu và đuôi sọc đen. Khả năng trèo cây của chúng rất tốt.
Cáo lông bạc có ngoại hình gần giống như loài cáo đỏ, chỉ khác nhau ở biến sắc tố (do chất trong tế bào da tạo thành).
Bộ lông của cáo bạc được cho là một trong những loại lông có giá trị nhất. Hiện loài này đang được lai tạo và nuôi để lấy lông.
Cáo Bắc cực không chỉ có lông màu trắng, thực tế trong mùa hè khi tuyết tan, lông của chúng có thể đổi sang màu tối để hòa nhập với môi trường.
Cáo Bắc cực là loài ăn tạp, ăn hầu như bất cứ thứ gì chúng có thể tìm thấy - từ động vật gặm nhấm, chim hoặc cá, rong biển và xác bỏ thừa của những kẻ săn mồi lớn hơn.
Bộ lông trắng muốt là đặc trưng dễ dàng nhận ra nhất của cáo Bắc cực.
Cáo chữ thập (cross fox) là những cá thể biến thể màu sắc của loài cáo đỏ.
Cáo chữ thập phổ biến nhất ở Bắc Mỹ.