|
(Ảnh minh hoạ: Internet) |
Tháng 4 năm 234, quân Thục hành quân đến huyện My. Lúc này Tư Mã Ý thống lĩnh đã đến bờ Nam sông Vị Thủy. Trong chiến dịch lần này, chỉ huy quân Ngụy là Tư Mã Ý một lần nữa biết rằng vấn đề của quân Thục chính là tiếp lương, và ra lệnh cho Tư Mã Chiêu giữ quân phòng thủ đợi quân địch mệt mỏi. Tư Mã Ý khai thác thế yếu của quân Thục là mới hành quân từ xa đến, vận chuyển lương thực khó khăn, quyết định thủ để công, nhờ yếu tố thời gian làm cho quân Thục phải tan rã. Tư Mã Ý vẫn sử dụng chiến thuật cố thủ không ra đánh.
Khổng Minh dẫn một toán quân đóng ở gò Ngũ Trượng đã nhiều lần sai người ra khiêu chiến, quân Ngụy nhất định không ra. Tư Mã Ý áp dụng kế sách đóng cổng thành không chịu ra giao chiến, mặc cho quân Thục khiêu khích. Tư Mã Ý biết rằng quân Thục hành quân từ xa đến, thì việc tiếp tế chi viện sẽ hết sức khó khăn, chỉ cần giữ vững thế trận không ra giao chiến trong một thời gian dài, thì binh lực của quân Thục sẽ dần dần bị hao tổn, khi đó quân Ngụy sẽ chớp thời cơ thuận lợi đánh một trận, giành thắng lợi quyết định.
|
Quân Nguỵ án binh bất động, chờ thời phản công. (Ảnh minh hoạ: Internet) |
Đây gọi là lấy ‘tĩnh chế động’, không đánh khi kẻ địch đang có lợi thế, chỉ đánh khi quân mình có lợi thế. Đợi thời cơ đến sẽ có thể ‘chuyển bại thành thắng’, tuyệt đối không manh động làm hỏng đại sự, đó chính là cái tài của người dùng binh vậy.
Gia Cát Lượng biết rõ tác dụng lợi hại của chiến thuật phòng thủ trường kỳ đó, liền cử quân sĩ đến dưới chân thành mắng nhiếc quân Ngụy rất thậm tệ, nhằm chọc tức Tư Mã Ý, hi vọng ông ta xuất quân ra đánh nhau với quân Thục, nhưng quân Ngụy giả vờ như không nghe thấy, tiếp tục án binh bất động dù nhiều lần bị Gia Cát Lượng khiêu chiến, Tư Mã Ý không cho quân tấn công.
Đến lúc này Khổng Minh mới nghĩ ra một kế, bèn lấy một cái khăn, cái yếm và đồ trắng của đàn bà, đựng vào một cái hòm, rồi viết thư, sai người đưa đến trại Ngụy.
Các tướng không dám giấu giếm, dẫn người đưa thư vào ra mắt Tư Mã Ý. Ý sai mở hòm ra xem, thấy có yếm áo đàn bà và một phong thư. Trong thư nói rằng:
“Trọng Đạt đã làm đại tướng, thống lĩnh quân Trung Nguyên, không dám mặc giáp cầm gươm, để quyết sống mái mà chịu ngồi núp ở trong tối trong hang, để lánh lưỡi đao mũi tên, thế thì khác gì đàn bà? Nay sai người đưa khăn yếm quần áo trắng của đàn bà đến, nếu không dám ra đánh, thì phải lạy hai lạy mà nhận lấy; nếu còn biết xấu hổ, có chí khí người con trai, thì phải phê vào giấy này, y hẹn ra giao chiến“.
Tư Mã Ý xem xong, trong bụng đầy căm giận, nhưng cũng gượng cười nói rằng: “Khổng Minh coi ta như đàn bà ru?” Nhưng rồi, ông phát hiện ra đây chính là kế khích tướng, chấp nhận nhịn nhục để không trúng kế Khổng Minh. Liền chịu nhận đồ ấy, mở ra mặc trước ba quân và rất lấy làm thích thú, rồi nhờ gửi lời cám ơn đến sự quan tâm của Thừa tướng.
Các viên tướng Ngụy tức điên, vì xưa nay người xưa có câu: “Sĩ khả sát, bất khả nhục” (Kẻ sĩ thà bị chết chứ không chịu nhục). Rõ ràng bức thư đầy những lời lăng mạ đó đã khiến cho Tư Mã Ý tức giận, rồi khi mặc chiếc áo “sặc sỡ” sắc màu của đàn bà kia đã là quá bị vũ nhục lần nữa rồi, nhưng ông lại có thể nhanh chóng vượt qua khảo nghiệm trọng đại này, điềm nhiên vui cười khiến cho sứ giả Thục quốc chết lặng một lúc, vì thế mà ông có thể làm được việc lớn về sau, đặt nền móng vững chắc từng bước cho hai con xây dựng nhà Tây Tấn.
Trong “Thượng thư”, Chu Thành Vương khuyên bảo quân rằng: “Tất hữu nhẫn, kỳ nãi hữu tể; hữu dung, đức nãi đại.” (Tạm dịch: Nhất định phải nhẫn nhịn mới có thể thành công, có thể khoan dung với người thì đạo đức tu dưỡng mới có thể nâng cao lên). Khổng Tử nói: “Tiểu bất nhẫn, tắc loạn đại mưu” (Tạm dịch: Không nhịn được điều nhỏ nhặt, sẽ làm hỏng chuyện đại sự), “quân tử vô sở tranh” (Tạm dịch: Người quân tử không tranh gì cả)…
Nhẫn không chỉ là thể hiện ở sự nhượng bộ, mà còn thể hiện ở chỗ khi bị lăng nhục vẫn có thể chịu nhận mà không động tâm. Chỉ riêng chữ Nhẫn (忍) đã biểu đạt được điều này. Bên trên của Nhẫn (忍) là chữ đao (刀) và còn thêm một điểm để biểu thị sự sắc bén của vết đao, bên dưới của Nhẫn (忍) lã chữ Tâm (心).
Ý tứ ở đây chỉ việc dùng một đao sắc bén đâm vào trái tim thì đương nhiên là đau. Người bình thường bị như vậy phải đau đớn quằn quại lăn qua lăn lại trên mặt đất. Nhưng chữ Tâm ở bên dưới chữ Nhẫn kia vẫn đứng vững yên tĩnh. Biểu hiện không động tâm này chính là hình ảnh lột tả được nội hàm của Nhẫn.
Trong lịch sử cũng có vài nhân vật vì nhẫn được mà hoàn thành đại nghiệp như điển cố nổi tiếng: Hàn Tín chịu nhục chui háng, qua đó lấy được một nửa giang sơn cho nhà Hán, lưu tiếng thơm muôn thuở. Còn Việt Vương Câu Tiễn nếm mật nằm gai trong suốt 10 năm, chịu bao tủi nhục cay đắng mới có ngày phục quốc…
Qua đây có thể thấy được trình độ và cảnh giới tư tưởng vô cùng khác biệt của Tư Mã Ý với các tướng cấp dưới, những vị tướng “Sĩ khả sát, bất khả nhục“, còn Ý thì có tâm Đại Nhẫn thật quảng đại.
Tư Mã Ý trọng đãi sứ thần của quân Thục, không bàn luận các vấn đề quân sự với vị sứ giả được cử đến để làm nhiệm vụ này, thay vào đó lại hỏi han về những công việc của Gia Cát Lượng, thăm dò tin tức, lợi dụng mọi cơ hội để có thể khai thác thông tin từ đối phương.
Khi biết rằng Gia Cát Lượng đang lo nghĩ về chuyện thiếu lương thực, Tư Mã Ý liền phán đoán rằng Gia Cát Lượng chẳng còn có thể sống được bao lâu nữa, càng củng cố quyết tâm giữ vững, không ra đánh, coi đó là sách lược để diệt Thục. Và cũng qua câu nói với sứ giả đó, muốn dùng đòn tâm lý để gửi đến Gia Cát Lượng rằng: “Ngày ông chết không còn xa nữa đâu, tôi sẽ chờ cho tới tận lúc đó, ông có hiểu không hả Lượng?”
Sứ giả từ về, đến gò Ngũ Trượng ra mắt Khổng Minh, thuật lại việc Tư Mã Ý chịu nhận khăn áo đàn bà, và các lời hỏi han. Khổng Minh than rằng: “Ý thực là biết ta!” Đây đúng là một cặp đôi tri kỷ, rất hiểu ý nhau, qua nhiều lần đối trận, càng đánh càng chứng tỏ: không ai hiểu Ý bằng Gia Cát Lượng, và ngược lại, không ai hiểu Lượng bằng Tư Mã Ý.
Các tướng Ngụy thấy Khổng Minh đưa khăn áo đàn bà cho Tư Mã Ý. Ý chịu nhận, không dám ra đánh. Các tướng cùng vỗ bụng căm tức, vào trướng bẩm rằng: “Chúng tôi cùng là danh tướng nước Ngụy, chịu sao được người Thục sỉ nhục thế này? Vậy xin ra đánh để quyết một trận sống mái.”
Ý nói: “Ta có phải muốn chịu nhục đâu, bởi vì thiên tử giáng chiếu, sai giữ vững không cho ra đánh, nếu ta khinh động, thì trái quân mệnh mất.” Các tướng bực dọc không bằng lòng.
Ý nói: “Các ngươi nếu muốn đánh, đợi ta tâu với thiên tử, rồi sẽ đồng lực ra đánh giặc, được chăng?” Chúng tôi xin vâng lời. Ý sai sứ mang biểu đến Hợp Phì tâu với Ngụy chủ. Biểu rằng:
“Thần tài nhỏ trách nhiệm to, cúi đột chiếu chỉ sai thần giữ vững không đánh, để đợi quân Thục tự nhiên phải tan. Nhưng nay Gia Cát Lượng sai người đưa khăn yếm, coi thần như đàn bà, thần lấy làm sỉ nhục lắm. Thần kính tâu trước vời bệ hạ, sớm tối xin liều một trận đại chiến để báo ơn triều đình, mà rửa cái xấu hổ cho ba quân. Thần cảm kích không biết ngần nào“.
Tào Tuấn xem xong, hỏi các tướng rằng: “Tư Mã Ý trước xin giữ vững không đánh, nay lại dâng biểu xin đánh là cớ làm sao?” Vệ uý là Tân Tỷ tâu rằng: “Tư Mã Ý vốn không có bụng muốn đánh, đây là Gia Cát Lượng sỉ nhục, các tướng căm tức, cho nên dâng biểu lên, là có ý muốn cầu chiếu chỉ để trấn bụng các tướng đấy thôi.”
Tuấn lấy làm phải, sai Tân Tỷ cầm cờ tiết đến trại Vị Bắc, truyền lời dụ không được ra đánh. Nếu ai dám nói đến sự đánh, thì ghép vào tội trái chiếu chỉ nhà vua. Các tướng đều phải tuân theo. Ý bảo với Tân Tỷ rằng: “Ông thực là biết bụng tôi lắm!”
Bởi thế, trong quân nói truyền đi, ai ai cũng biết. Các tướng Thục nghe tin ấy, vào bẩm với Khổng Minh. Khổng Minh cười rằng: “Đó là Tư Mã Ý trấn bụng ba quân đó.”
Khương Duy hỏi: “Thừa tướng sao lại biết là thế?” Khổng Minh nói: “Ý vốn không dám đánh, xin đánh là thị oai với chúng đó thôi. Có câu rằng: “Tướng ở ngoài, dù vua sai có điều không nghe cũng được”. Lẽ đâu cách xa nghìn dặm, mà phải xin lệnh đánh bao giờ? Đây vì Tư Mã Ý nhân các tướng tức giận, cho nên mượn ý Tào Tuấn để trấn bụng chúng và truyền lời ấy ra, để quân ta sinh trễ nải đó thôi.”
Đây là kế “mượn gió để bẻ măng”, không trực tiếp ra tay mà mượn tay người khác (vua) để trấn an binh sĩ, từ đó vẫn vừa được lòng quân, mà lại giữ cho chiến tuyến tiếp tục ổn định để chờ thời thế thay đổi.
|
Gia Cát Lượng qua đời trong doanh trại, đây là thông tin cơ mật trong quân Thục. |
Tháng 8 cùng năm, do vất vả mệt nhọc lâu ngày mà sinh bệnh, Gia Cát Lượng không may qua đời trong doanh trại Ngũ Trượng Nguyên, chỉ thọ được 54 tuổi, quân Thục như rắn mất đầu, đành phải lẳng lặng rút lui và Tư Mã Ý không cần đánh mà vẫn giành chiến thắng.
Nếu Tư Mã Ý không kìm nén được cơn tức giận, xông ra ngoài thành nghênh chiến, thì kết cục chưa thể nói trước ra sao và lịch sử có thể diễn biến khác đi rồi. Qua đó cho thấy Tư Mã Ý được coi là mẫu người điển hình biết kiềm chế thịnh nộ, có tâm đại nhẫn thật phi thường, xứng đáng là đối thủ lớn nhất trong đời Gia Cát Lượng.