Những phận đời buồn tủi…
Theo một số tài liệu còn ghi chép lại thì thái giám ra đời từ rất sớm, ngay từ thời Tây Chu ở Trung Quốc (1066 - 770 TCN) đã xuất hiện và là sản phẩm đặc thù của chế độ phong kiến phương Đông. Họ được coi là một nét khắc họa độc đáo nhất của cung đình phong kiến xưa nay khi không bị sức ép thời gian vạch dấu ấn lên những thay đổi giới tính và tuổi tác.
Hằng ngày, các thái giám là hầu hạ vua, hoàng thái hậu, các cung tần mỹ nữ. Một số thái giám khác được điều sang phục dịch, hầu hạ các cung phi goá bụa của vua đời trước tại các lăng tẩm.
Đặc biệt, thái giám còn người tuyển lựa hoặc ghi chép tên cung phi và ngày giờ vua “ân sủng” để báo cho Quốc sử quán ghi vào sổ nhằm theo dõi tránh những chuyện rắc rối, nhầm lẫn về sau. Và chính điều này tạo nên đặc quyền riêng của các thái giám, bởi không phải cung phi, mỹ nữ nào cũng may mắn được phục vụ vua chúa.
Để phân biệt với lớp quan lại khác, những thái giám được cấp một loại trang phục riêng bằng lụa xanh , dệt hoa trước ngực, đội mũ cứng hoặc khăn đóng. Khi sống, họ lo phục dịch trong Tử Cấm thành hoặc lăng tẩm của các vua. Đến lúc già yếu, họ buộc phải rời Đại Nội , ra dưỡng bệnh hoặc nằm chờ chết tại một tòa nhà ở phía bắc Hoàng thành, gọi là cung Giám Viện chứ tuyệt đối không được chết tại nơi vốn là chốn dành riêng cho vua chúa hoặc Hoàng gia.
|
Thái giám là những tầng lớp đặc thù xuất hiện trong các triều đại phong kiến xưa (Ảnh: Tư liệu).
|
Theo các nhà nghiên cứu thì từ xưa tới nay, đối với các thái giám thì bộ phận đã bị cắt rời là một "bảo vật" cực kỳ quan trọng. Nó được xử lý bằng những kỹ thuật riêng ngay sau khi cuộc phẫu thuật kết thúc, thường là tẩm vôi bột để làm sạch, khô ráo và tránh khỏi bị hoại. Sau đó, họ dùng vải hay giấy bản lau sạch rồi đem "bảo vật" qua tẩm ướp bằng hương liệu đặt vào trong một chiếc bình và niêm phong lại.
Các thái giám phải cất giữ nó rất cẩn thận, vì trên con đường công danh mỗi khi được thăng quan, tiến chức họ phải đem trình "bảo vật" đó cho một nhóm gồm những quan có tước phẩm cao thuộc bộ hình của triều đình kiểm tra. Cũng có khi vì một lý do nào đó, hoạn quan phải mua hoặc thuê "bảo vật" của người khác để trình lên trong các dịp này. Tuy nhiên, việc này tốn khá nhiều tiền và nguy hiểm, vì nếu lộ ra thì có thể nhẹ là bị chém đầu nặng hơn là liên lụy đến cả họ.
Nơi bình yên mãi mãi
Là triều đại phong kiến cuối cùng tại Việt Nam nên nhà Nguyễn vẫn duy trì một đội ngũ thái giám khá lớn trong cung cấm.Theo sử cũ, ước lượng ở giai đoạn đầu triều Nguyễn, mỗi thời thường xuyên có khoảng 200 người, về sau giảm bớt đi một chút.
Đội ngũ thái giám thời kỳ này cũng được chia thành 5 đẳng. Thấp nhất là thừa biện và cung phụng, hưởng bổng lộc của triều đình, 2 quan tiền và 2 phương gạo/tháng. Cao nhất là quảng vụ, được cấp 6 quan tiền và 4 phương gạo. Riêng đối với những thái giám là thân cận của vua, hoàng hậu hoặc hoàng thái hậu thì quyền lực bổng lộc và có rất nhiều đặc ân.
Theo các nhà nghiên cứu, dưới triều Nguyễn có hai loại thái giám: Giám sinh tức là người sinh ra đã không có bộ phận sinh dục. Theo quy định của triều đình, gia đình nào có người sinh con như vậy thì phải báo lên cho triều đình biết thông qua lý trưởng của làng. Lý trưởng báo huyện, huyện báo tỉnh, tỉnh báo lên Bộ Lễ, Bộ Lễ báo vua. Vua ra sắc chỉ truyền về làng đó và yêu cầu cha mẹ đứa bé phải nuôi dạy cho tốt đến 7-8 tuổi.
Cha mẹ đứa bé đó sẽ được hưởng một số ruộng đất mà làng ban cho để làm ăn sinh sống và nuôi đứa bé. Đến 7-8 tuổi thì được chuyển lên Bộ Lễ, tại đây cháu bé được dạy dỗ các phong tục, phép tắc trong triều. Đến khi thành thục sẽ được cho vào cung.
Vì vậy mà người ta có câu “đẻ ông Bộ cho làng nhờ” có nghĩa là đứa bé đó sẽ được chuyển về Bộ Lễ, gia đình đó được ban ruộng đất, và cả làng sẽ được miễn thuế trong vòng 3 năm. Một dạng nữa là Giám lặt, đó là những con người bình thường khi đến độ tuổi thanh niên (thường từ 18 tuổi trở lên) thì tự nguyện cắt bỏ bộ phận sinh dục để vào phục vụ trong cung cấm.
Tuy nhiều quyền lực, bổng lộc đến đâu nhưng nỗi ám ảnh lớn nhất đối với những thái giám chính là sau này khi nhắm mắt xuôi tay không có người chăm lo hương khói, cúng giỗ cho mình. Vì không còn khả năng sinh con nên nhiều thái giám đã chọn cách nhận con nuôi để tránh việc hương tàn khói lạnh sau này.
Ngoài việc nhận con nuôi, một số thái giám đã góp tiền của của vào tìm đất lành, công đức xây chùa để được lo lắng hậu phần sau này. Trong đó, chùa Từ Hiếu (thuộc làng Dương Xuân Thượng, phường Thủy Xuân, TP.Huế) nằm ở phía Tây Nam kinh thành Huế 5km cách Đàn Nam Giao khoảng 2km là một trong những ngôi chùa cổ có lịch sử lâu đời gắn liền với biết bao thăng trầm biến đổi của vùng đất Cố đô xưa. Đặc biệt là nơi đây vẫn còn lưu lại một khu nghĩa trang dành riêng cho thái giám độc nhất vô nhị tại Việt Nam.
Chùa tọa lạc trên một khu đồi núi thấp khá bằng phẳng, phía trước cổng chùa là một khu đồi thông xanh mát, bên cạnh có một con suối nhỏ nước trong vắt quanh năm nước chảy tạo cho nơi đây phong cảnh trầm mặc, thanh tĩnh đậm chất chốn thiền môn.
Tiền thân của chùa Từ Hiếu là An Dưỡng Am được xây dựng do nhà sư Nhất Định – là một vị tăng uyên bác, thông tuệ nội điển được cả triều đình Huế kính nể lập lên từ khoảng đầu thế kỷ XIX để làm nơi tịnh tu.
Đến năm 1843, dưới thời vua Thiệu Trị, quan thái giám Châu Phước Năng do ý thức và lo lắng rằng sau này khi mình nằm xuống do không có con nối dõi, bát hương sẽ nguội lạnh trong những ngày cúng giỗ nên đã đứng ra quyên tiền góp của để trùng tu xây dựng An Dưỡng Am thành một ngôi chùa khang trang với mong muốn sau này làm nơi yên nghỉ, hương khói.
Về sau, An Dưỡng Am được vua Tự Đức sắc phong “Sắc tứ Từ Hiếu Tự”, từ đó chùa chính thức có tên là Từ Hiếu và tất cả những thái giám trong triều Nguyễn có phần công đức tại chùa sau khi mất đều sẽ được nhà chùa mai táng, chon cất và hương khói tại chùa trong những ngày cúng giỗ. Cũng chính vì lẽ đó nên ngoài tên gọi Từ Hiếu ra thì chùa còn có các tên gọi khác như “chùa Thái giám” hay “chùa Hoạn quan”.
Nằm cách chính điện khoảng 50 mét về phía bên trái của chùa Từ Hiếu chính là khu mộ địa của các quan thái giám với hơn 20 ngôi mộ được chia thành 3 dãy rõ rệt, phía trên mỗi bia mộ đều có khắc tên tuổi, quên quán, pháp danh, chức vụ và ngày mất của từng vị thái giám.
Các ngôi mộ có 3 dãy, hàng thứ nhất mộ to, hàng thứ ba mộ nhỏ hơn hàng thứ hai vì được xếp theo chức vụ của quan Thái giám xưa. Những ngôi mộ này được bao bọc bởi một dãy tường rào cao 1,78 m, dài 26,3 m, rộng 19,5 m với kiến trúc la thành hình chữ nhật bao ôm xung quang diện tích 1.000 m².
Hằng năm, cứ đến ngày rằm tháng 11 âm lịch, nhà chùa lại đứng ra tổ chức ngày giỗ chung để tưởng nhớ đến công đức những người đã mất, trong đó có các quan thái giám triều Nguyễn có phần công đức tại chùa.Trải bao biến thiên dâu bể, những phận đời buồn tủi sống lặng lẽ, cam chịu. Đến khi mãn kiếp, họ cũng chọn nơi thanh tĩnh gửi thân. Những gì còn lưu lại cho đời sau của những thái giám chỉ còn là chút ngậm ngùi, thương xót cho những kiếp người sống cô độc, chết trong hoang lạnh.