Đèn hình tích tà bằng đồng, thế kỷ 1 - 3. Tích tà là linh vật huyền thoại có nguồn gốc Á Đông, hình thức giống như sư tử có cánh. Đây là linh vật trấn giữ mang ý nghĩa biểu tượng trừ tà, xua đuổi điều xấu, mang lại tốt lành.Bồ lao trên quai chuông đồng của chùa Thanh Long (Thái Bình), thời Lê Trung Hưng, niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772). Theo truyền thuyết, bồ lao là động vật biển thường được thể hiện dưới dạng rồng hai đầu, thích âm thanh lớn, thích gầm rống, rất sợ cá kình, khi bị cá kình đuổi thì kêu rất to. Người xưa đúc chuông thường tạo hình quai bồ lao, dùi hình cá kình với mong muốn tiếng chuông kêu vang xa, do đó từ "bồ lao" cũng được dùng để chỉ tiếng chuông chùa.Tay nắm cửa hình tiêu đồ bằng đồng, thế kỷ 1 - 3. Theo truyền thuyết, tiêu đồ là linh vật có tính khí lười biếng, thường cuộn tròn nằm ngủ, không thích có kẻ lạ xâm nhập lãnh địa của mình. Bởi vậy, tiêu đồ thường được chạm trên tay nắm cửa ra vào, ngụ ý răn đe kẻ lạ, bảo vệ sự an toàn cho chủ nhà.Hình thao thiết đúc nổi trên tai thạp đồng, khoảng thế kỷ 2 TCN - 2 SCN. Theo truyền thuyết, thao thiết là con vật ham ăn vô độ, thậm chí có thể ăn cả cơ thể mình. Vì vậy, hình ảnh thao thiết chỉ là phần đầu với hai chân trước nhìn chính diện trông vừa dữ tợn, vừa uy nghi. Ban đầu, thao thiết được trang trí trên bộ đồ ăn để nhắc nhở phép lịch sự trong ăn uống. Về sau thao thiết xuất hiện trên nhiều loại vật dụng khác, tượng trưng cho sự no đủ, bền vững.Hình chim thần Garuda trên mảnh tháp bằng đất nung, thời Lý, thế kỷ 11 - 13. Garuda là loài chim thần có nguồn gốc từ Ấn Độ, thường được miêu tả như người - chim, tượng trưng cho sức mạnh và chân lý. Ở Việt Nam, Garuda xuất hiện trong nghệ thuật Champa như vật cưỡi của thần Ấn Độ giáo Vishnu. Trong nghệ thuật Phật giáo Đại Việt từ thời Lý (thế kỷ 11 - 13) đến thời Mạc (thế kỷ 16), Garuda là linh vật trấn giữ các góc tháp, đỡ góc bệ thờ hoặc mái đao chùa... Đây là hình tượng tiêu biểu cho sự giao lưu văn hóa Đại Việt - Champa.Hình cá hóa rồng trên đĩa gốm nhiều màu thời Lê sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam. Cá hóa rồng vốn là truyền thuyết được lưu truyền phổ biến ở Việt Nam, gắn với tích "Ngư dược Vũ môn" của Nho học, tượng trưng cho sự kiên trì, bền chí chinh phục tri thức để tiến tới thành công của sĩ tử. Trong nghệ thuật Việt, đề tài cá hóa rồng bắt đầu xuất hiện từ thời Trần (thế kỷ 13 - 14), phổ biến và đạt đến đỉnh cao thời Lê sơ (thế kỷ 15).Tượng si vẫn (con kìm) bằng đất nung thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 - 18. Theo truyền thuyết, si vẫn là động vật biển có đuôi cong trong, đập sóng thì mưa xuống. Bởi vậy người xưa thường đặt nó trên nóc mái các công trình kiến trúc với ý nghĩa phòng ngừa hỏa hoạn. Ở Việt Nam, nó còn được gọi là con kìm, được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như đầu rồng đuôi cá, đầu rồng đuôi si...Hình tượng con trâu trong bộ tượng 12 con giáp bằng ngọc thời Nguyễn, thế kỷ 19 - 20, nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn. Ở Việt Nam, 12 cop Giáp gồm Tí (Chuột), Sửu (Trâu), Dần (Hổ), Mão (Mèo), Thìn (Rồng), Tị (Rắn), Ngọ (Ngựa), Mùi (Dê), Thân (Khỉ), Dậu (Gà), Tuất (Chó), Hợi (Lợn), tương ứng với 12 chi trong lịch pháo Á Đông, dùng để tính thời gian theo chu kỳ quay của mặt trăng. 12 con giáp còn được dùng để liên kết các yếu tố liên quan đến vận mệnh, cuộc sống con người.Tượng sư tử/ nghê chầu bằng gỗ sơn thiếp, thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 - 18. Trong văn hóa Việt, con nghê là biến thể từ sư tử và chó dữ, là biểu tượng của sức mạnh, thường được dùng làm linh vật trấn giữ trước cổng đình chùa hoặc trang trí trên các đồ vật thể hiện quyền uy.Tượng nghê bằng đất nung thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 - 18, phát hiện tại An Lạc, Khoái Châu, Hưng Yên.Tượng nghê chầu làm bằng gốm men trắng và lục dùng làm đồ thờ cúng (trái) và Bình rót có quai hình nghê làm bằng gốm men lam xám dùng để đựng nước, rượu cúng (phải) thời Mạc, thế kỷ 16.Tượng sư tử/ nghê bằng sành, thế kỷ 18 - 19. Dạng tượng này thường được gắn trên đầu hai trụ biểu các công trình kiến trúc cổ với chức năng trấn giữ, canh gác.Tượng sư tử/ nghê trên ấn "Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo" bằng vàng, thời Lê Trung Hưng, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 5 (1709).Tượng sư tử/ nghê trên các ấn làm bằng ngọc, cẩm thạch, thủy tinh thời Nguyễn, thế kỷ 19 - 20, nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.Tượng sư tử/ nghê trên ấn làm bằng bạc thời Nguyễn, thế kỷ 19 - 20, nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.Hình sư tử/ nghê gắn trên nắp đỉnh trầm làm bằng gốm mem rạn thời Lê Trung Hưng niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1736).Hình sư tử hí tiền trên bình gốm hoa lam thời Lê Sơ, thế kỷ 15, hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam. Đề tài sư tử hí tiền, sư tử hí cầu bắt đầu xuất hiện từ thời trần về sau, phổ biến và đạt tới đỉnh cao thời Lê Sơ, là hình ảnh biểu trưng của sự thái bình thịnh trị. Đây vốn là ý nghĩa của kỳ lân, được gán ghép cho sư tử.Cặp sư tử/ nghê chầu làm bằng gỗ sơn thiếp thời Nguyễn, thế kỷ 19 - 20.Tượng sư tử bằng đá cát của văn hóa Chămpa, thế kỷ 10, khai quật tại Trà Kiệu, Duy Xuyên, Quảng Nam.Tượng sư tử chầu bằng đất nung thời Lý, thế kỷ 11 - 13.Đầu sư tử bằng đất nung thời Lý, thế kỷ 11 - 13. Đây là vật trang trí kiến trúc hoặc làm đầu máng xối nước. Hình thức này xuất hiện phổ biến dưới thời Lý - Trần (thế kỷ 11 - 14).Cổ bệ tượng Phật chạm hình sư tử chầu ngọc bằng đá, thời Lý, thế kỷ 11 - 13. Đây là một phần trong kết cấu bệ tượng Phật, ở vị trí đỡ tòa sen cho Đức Phật ngồi, mô phỏng theo Phật thoại về con Kim Nghê (Sư tử lông vàng) bảo vệ Phật pháp. Hình thức nghệ thuật này phổ biến dưới thời Lý - Trần (thế kỷ 11 - 14).Voi đội bình làm bằng gốm men rạn, thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 - 18. Hình tượng voi xuất hiện trong đồ thờ cúng mang ý nghĩa tượng trưng cho sự kiên định và trong sạch.Tượng voi làm bằng đá cát của văn hóa Chămpa, thế kỷ 10, khai quật tại Trà Kiệu, Duy Xuyên, Quảng Nam.Tượng uyên ương bằng đất nung thời Lý, thế kỷ 11 - 13. Theo Phật thoại, uyên ương là một trong các hóa thân của Đức Phật. Trong nghệ thuật Việt, uyên ương xuất hiện phổ biến trong trang trí kiến trúc cung đình và chùa tháp thời Lý - Trần trong tư thế dang cánh đậu trên các viên ngói bò lợp mái.Cặp tượng rắn đầu người làm bằng gốm men trắng, thời Nguyễn, thế kỷ 19 - 20. Với người Việt, rắn là biểu tượng của Thần Nước, đại diện cho hai thành tố đối lập tốt và xấu. Tín ngưỡng nguyên thủy của người Việt có tục thờ Rắn, mang ý niệm về sông nước của cư dân làm nông nghiệp. Nhìn chung, rắn ít xuất hiện trong nghệ thuật tạo hình.
Đèn hình tích tà bằng đồng, thế kỷ 1 - 3. Tích tà là linh vật huyền thoại có nguồn gốc Á Đông, hình thức giống như sư tử có cánh. Đây là linh vật trấn giữ mang ý nghĩa biểu tượng trừ tà, xua đuổi điều xấu, mang lại tốt lành.
Bồ lao trên quai chuông đồng của chùa Thanh Long (Thái Bình), thời Lê Trung Hưng, niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772). Theo truyền thuyết, bồ lao là động vật biển thường được thể hiện dưới dạng rồng hai đầu, thích âm thanh lớn, thích gầm rống, rất sợ cá kình, khi bị cá kình đuổi thì kêu rất to. Người xưa đúc chuông thường tạo hình quai bồ lao, dùi hình cá kình với mong muốn tiếng chuông kêu vang xa, do đó từ "bồ lao" cũng được dùng để chỉ tiếng chuông chùa.
Tay nắm cửa hình tiêu đồ bằng đồng, thế kỷ 1 - 3. Theo truyền thuyết, tiêu đồ là linh vật có tính khí lười biếng, thường cuộn tròn nằm ngủ, không thích có kẻ lạ xâm nhập lãnh địa của mình. Bởi vậy, tiêu đồ thường được chạm trên tay nắm cửa ra vào, ngụ ý răn đe kẻ lạ, bảo vệ sự an toàn cho chủ nhà.
Hình thao thiết đúc nổi trên tai thạp đồng, khoảng thế kỷ 2 TCN - 2 SCN. Theo truyền thuyết, thao thiết là con vật ham ăn vô độ, thậm chí có thể ăn cả cơ thể mình. Vì vậy, hình ảnh thao thiết chỉ là phần đầu với hai chân trước nhìn chính diện trông vừa dữ tợn, vừa uy nghi. Ban đầu, thao thiết được trang trí trên bộ đồ ăn để nhắc nhở phép lịch sự trong ăn uống. Về sau thao thiết xuất hiện trên nhiều loại vật dụng khác, tượng trưng cho sự no đủ, bền vững.
Hình chim thần Garuda trên mảnh tháp bằng đất nung, thời Lý, thế kỷ 11 - 13. Garuda là loài chim thần có nguồn gốc từ Ấn Độ, thường được miêu tả như người - chim, tượng trưng cho sức mạnh và chân lý. Ở Việt Nam, Garuda xuất hiện trong nghệ thuật Champa như vật cưỡi của thần Ấn Độ giáo Vishnu. Trong nghệ thuật Phật giáo Đại Việt từ thời Lý (thế kỷ 11 - 13) đến thời Mạc (thế kỷ 16), Garuda là linh vật trấn giữ các góc tháp, đỡ góc bệ thờ hoặc mái đao chùa... Đây là hình tượng tiêu biểu cho sự giao lưu văn hóa Đại Việt - Champa.
Hình cá hóa rồng trên đĩa gốm nhiều màu thời Lê sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam. Cá hóa rồng vốn là truyền thuyết được lưu truyền phổ biến ở Việt Nam, gắn với tích "Ngư dược Vũ môn" của Nho học, tượng trưng cho sự kiên trì, bền chí chinh phục tri thức để tiến tới thành công của sĩ tử. Trong nghệ thuật Việt, đề tài cá hóa rồng bắt đầu xuất hiện từ thời Trần (thế kỷ 13 - 14), phổ biến và đạt đến đỉnh cao thời Lê sơ (thế kỷ 15).
Tượng si vẫn (con kìm) bằng đất nung thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 - 18. Theo truyền thuyết, si vẫn là động vật biển có đuôi cong trong, đập sóng thì mưa xuống. Bởi vậy người xưa thường đặt nó trên nóc mái các công trình kiến trúc với ý nghĩa phòng ngừa hỏa hoạn. Ở Việt Nam, nó còn được gọi là con kìm, được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như đầu rồng đuôi cá, đầu rồng đuôi si...
Hình tượng con trâu trong bộ tượng 12 con giáp bằng ngọc thời Nguyễn, thế kỷ 19 - 20, nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn. Ở Việt Nam, 12 cop Giáp gồm Tí (Chuột), Sửu (Trâu), Dần (Hổ), Mão (Mèo), Thìn (Rồng), Tị (Rắn), Ngọ (Ngựa), Mùi (Dê), Thân (Khỉ), Dậu (Gà), Tuất (Chó), Hợi (Lợn), tương ứng với 12 chi trong lịch pháo Á Đông, dùng để tính thời gian theo chu kỳ quay của mặt trăng. 12 con giáp còn được dùng để liên kết các yếu tố liên quan đến vận mệnh, cuộc sống con người.
Tượng sư tử/ nghê chầu bằng gỗ sơn thiếp, thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 - 18. Trong văn hóa Việt, con nghê là biến thể từ sư tử và chó dữ, là biểu tượng của sức mạnh, thường được dùng làm linh vật trấn giữ trước cổng đình chùa hoặc trang trí trên các đồ vật thể hiện quyền uy.
Tượng nghê bằng đất nung thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 - 18, phát hiện tại An Lạc, Khoái Châu, Hưng Yên.
Tượng nghê chầu làm bằng gốm men trắng và lục dùng làm đồ thờ cúng (trái) và Bình rót có quai hình nghê làm bằng gốm men lam xám dùng để đựng nước, rượu cúng (phải) thời Mạc, thế kỷ 16.
Tượng sư tử/ nghê bằng sành, thế kỷ 18 - 19. Dạng tượng này thường được gắn trên đầu hai trụ biểu các công trình kiến trúc cổ với chức năng trấn giữ, canh gác.
Tượng sư tử/ nghê trên ấn "Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo" bằng vàng, thời Lê Trung Hưng, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 5 (1709).
Tượng sư tử/ nghê trên các ấn làm bằng ngọc, cẩm thạch, thủy tinh thời Nguyễn, thế kỷ 19 - 20, nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.
Tượng sư tử/ nghê trên ấn làm bằng bạc thời Nguyễn, thế kỷ 19 - 20, nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.
Hình sư tử/ nghê gắn trên nắp đỉnh trầm làm bằng gốm mem rạn thời Lê Trung Hưng niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1736).
Hình sư tử hí tiền trên bình gốm hoa lam thời Lê Sơ, thế kỷ 15, hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam. Đề tài sư tử hí tiền, sư tử hí cầu bắt đầu xuất hiện từ thời trần về sau, phổ biến và đạt tới đỉnh cao thời Lê Sơ, là hình ảnh biểu trưng của sự thái bình thịnh trị. Đây vốn là ý nghĩa của kỳ lân, được gán ghép cho sư tử.
Cặp sư tử/ nghê chầu làm bằng gỗ sơn thiếp thời Nguyễn, thế kỷ 19 - 20.
Tượng sư tử bằng đá cát của văn hóa Chămpa, thế kỷ 10, khai quật tại Trà Kiệu, Duy Xuyên, Quảng Nam.
Tượng sư tử chầu bằng đất nung thời Lý, thế kỷ 11 - 13.
Đầu sư tử bằng đất nung thời Lý, thế kỷ 11 - 13. Đây là vật trang trí kiến trúc hoặc làm đầu máng xối nước. Hình thức này xuất hiện phổ biến dưới thời Lý - Trần (thế kỷ 11 - 14).
Cổ bệ tượng Phật chạm hình sư tử chầu ngọc bằng đá, thời Lý, thế kỷ 11 - 13. Đây là một phần trong kết cấu bệ tượng Phật, ở vị trí đỡ tòa sen cho Đức Phật ngồi, mô phỏng theo Phật thoại về con Kim Nghê (Sư tử lông vàng) bảo vệ Phật pháp. Hình thức nghệ thuật này phổ biến dưới thời Lý - Trần (thế kỷ 11 - 14).
Voi đội bình làm bằng gốm men rạn, thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 - 18. Hình tượng voi xuất hiện trong đồ thờ cúng mang ý nghĩa tượng trưng cho sự kiên định và trong sạch.
Tượng voi làm bằng đá cát của văn hóa Chămpa, thế kỷ 10, khai quật tại Trà Kiệu, Duy Xuyên, Quảng Nam.
Tượng uyên ương bằng đất nung thời Lý, thế kỷ 11 - 13. Theo Phật thoại, uyên ương là một trong các hóa thân của Đức Phật. Trong nghệ thuật Việt, uyên ương xuất hiện phổ biến trong trang trí kiến trúc cung đình và chùa tháp thời Lý - Trần trong tư thế dang cánh đậu trên các viên ngói bò lợp mái.
Cặp tượng rắn đầu người làm bằng gốm men trắng, thời Nguyễn, thế kỷ 19 - 20. Với người Việt, rắn là biểu tượng của Thần Nước, đại diện cho hai thành tố đối lập tốt và xấu. Tín ngưỡng nguyên thủy của người Việt có tục thờ Rắn, mang ý niệm về sông nước của cư dân làm nông nghiệp. Nhìn chung, rắn ít xuất hiện trong nghệ thuật tạo hình.