Nhà hát Lớn Hà Nội (số 1 Tràng Tiền): Năm 1899, Hội đồng thành phố Hà Nội đệ trình xây dựng một nhà hát nhằm phục vụ nhu cầu giải trí của người Pháp tại Hà Nội. Công trình khởi công ngày 7/6/1901 và hoàn thành vào năm 1911, do hai kiến trúc sư là Harlay và Broyer thiết kế, trong quá trình thi công có sự tham gia của kiến trúc sư Lagisquet. Đây là công trình biểu diễn lớn nhất khu vực Đông Nam Á lúc bấy giờ và sau này luôn là trung tâm biểu diễn và văn hóa. Không chỉ còn có giá trị về mặt thẩm mỹ và kiến trúc, nó còn giá trị lịch sử đối với nhà nước Việt Nam vì đây là nơi diễn ra cuộc họp đầu tiên của Quốc hội nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tranh: Phạm Anh Quân. Phủ Chủ tịch (số 2 Hùng Vương): Công trình khởi công xây dựng năm 1901 và hoàn thành năm 1906, do kiến trúc sư Auguste Henri Vildieu và Charles Lichtenfelder thiết kế. Công trình đươc tôn cao bởi các bậc thang vượt qua tầng bán hầm tạo vẻ uy nghi, bề thế. Với phong cách kiến trúc Tân cổ điển, không sử dụng mái mang-sa, các chi tiết trang trí đơn giản. Tranh: Bùi Mạnh Hà. Bảo tàng Lịch sử Quốc gia (số 1 Phạm Ngũ Lão): Công trình trước đây mang tên Viện Viễn Đông Bác cổ hay Bảo tàng Louis Finot, khởi công năm 1925 và hoàn thành năm 1932, do kiến trúc sư Ernest Hébrard thiết kế. Đây là công trình mang phong cách Đông Dương đầu tiên do Ernest Hébrard khởi xướng. Ông đã cố gắng tìm tòi các chi tiết kiến trúc gỗ truyền thống như mái, con sơn đỡ diềm mái và các ô văng cửa sổ. Đây là sự tìm tòi có giá trị, kết hợp giữa phong cách châu Âu và Á Đông. Tranh: Phạm Thanh Sơn. Ga Hàng Cỏ (Ga Hà Nội - số 120 Lê Duẩn): Tháng 6/1898, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer chấp nhận dự án xây dựng ga đường sắt tại Hà Nội do kiến trúc sư Boreil và Vildieu thiết kế. Công trình khởi công xây dựng năm 1899 và hoàn thành vào năm 1902. Công trình mang đậm nét kiến trúc của châu Âu, ban đầu chỉ là dãy nhà chính trông ra đầu phố Trần Hưng Đạo, kinh phí do chính phủ Pháp kêu gọi các nhà đầu tư góp vốn. Đây là ga trung tâm của Hà Nội, từ đây tới Vân Nam qua Lào Cai hay qua Lạng Sơn tới Bằng Tường (Trung Quốc), đi Hải Phòng và tuyến Bắc Nam vào tới Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh). Năm 1972, bom Mỹ phá sập phần chính của ngôi nhà. Tranh: Trần Thị Thanh Thủy. Nhà thờ Lớn Hà Nội (số 40 Nhà Chung): Nhà thờ được hoàn thành 1883, do linh mục Puginier chỉ đạo xây dựng theo mẫu hình từ châu Âu. Nhà thờ Lớn là nhà thờ có hai tháp chuông kiểu Gothic duy nhất ở Hà Nội, có thể xem như mẫu hình thu nhỏ của nhà thờ ở Paris. Tranh: Hoàng Phong (trái), Sutien Lokulprakit (phải). Bộ Ngoại giao (số 1 Tôn Thất Đàm): Công trình này trước đây là Sở Tài chính Đông Dương, do Ernest Hébrard thiết kế, khởi công năm 1925 và tới năm 1928 thì hoàn thành. Công trình có phong cách Đông Dương, một số chi tiết mang tính bản địa kết hợp với phong cách châu Âu như hệ mái hắt trên các khung cửa. Từ khi trở thành trụ sở Bộ Ngoại giao của nhà nước Việt Nam, nơi đây đã chứng kiến nhiều cuộc họp đưa ra các quyết định có tính lịch sử về đường lối ngoại giao qua nhiều giai đoạn phát triển của Việt Nam. Tranh: Vương Long. Nhà khách Chính phủ (trước đây là Bắc Bộ Phủ - số 12 Ngô Quyền): Hoàn thành năm 1911, do kiến trúc sư Auguste Henri Vildeu thiết kế, trước đây là Dinh Thống đốc Bắc Kỳ. Hiện nay công trình được sử dụng làm nhà khách của chính phủ. Công trình mang phong cách Tân cổ điển châu Âu, bố cục hình khối đơn giản, các trang trí cột được cách tân nhưng vẫn đạt hiệu quả thẩm mỹ. Công trình tạo được sự bề thế, sang trọng, đặc biệt với mái khu sảnh bằng kim loại ít được sử dụng trong thời kỳ đó. Tranh: Nguyễn Hoàng Lâm. Đại học Tổng hợp Hà Nội (số 19 Lê Thánh Tông): Công trình trước đây là Đại học Đông Dương, được đưa vào sử dụng năm 1926, do kiến trúc sư Ernest Hébrard thiết kế, mang phong cách Đông Dương. Sự tìm tòi của Ernest Hébrard thể hiện ở việc kết hợp phong cách Tân cổ điển châu Âu với đặc điểm kiến trúc phù hợp khí hậu bản địa, tạo các mái vẩy trên ô cửa, rất hữu hiệu trong việc che mưa nắng vùng nhiệt đới. Gian chính có lối vào hoành tráng với các mô típ trang trí dùng họa tiết Á Đông. Tranh: Phạm Anh Quân. Bưu điện Bờ Hồ (số 1 Lê Thạch): Đây là một trong những công trình công cộng thuộc loại đầu tiên người Pháp xây dựng tại Hà Nội, và tới nay nó vẫn được sử dụng với chức năng ban đầu. Công trình này do kiến trúc sư Auguste Henri Vildeu thiết kế, được đưa vào sử dụng năm 1896. Bưu điện Bờ Hồ nằm trong khu vực hành chính đầu tiên của Hà Nội và mang phong cách Cổ điển châu Âu với cách phân chia các tầng và mái mang-sa. Kiến trúc sư thiết kế thêm hàng hiên để phù hợp với khí hậu địa phương. Tranh: Trần Thị Thanh Thủy. Cầu Long Biên: Cây cầu được khởi công xây dựng năm 1898 và hoàn thành năm 1902 nên có người gọi đây là cây cầu nối hai thế kỷ. Cầu do hai nhà thầu Daydé và Pille thi công. Kết cấu thép của cầu có độ dài gần 2 km, là cây cầu lớn nhất bắc qua sông Hồng lúc đó và cũng là cây cầu lớn nhất Đông Dương. Cầu được tổ chức đường sắt ở giữa, hai bên dành cho xe cộ, sau này làm thêm vỉa hè cho người đi bộ. Có thêm một điểm độc đáo nữa là chiều đi ngược với bình thường. Năm 1972, cầu bị bom Mỹ phá hỏng một số nhịp nên hình dáng bây giờ không còn nguyên vẹn như thuở ban đầu. Tranh: Sutien LokulprakitCuốn sách Ấn tượng Hà Nội - Từ kí họa những công trình thời Pháp giới thiệu đến độc giả một không gian di sản kiến trúc Pháp tại Hà Nội. Đây là tác phẩm của Nhóm Kí họa Đô thị Hà Nội, nhóm tác giả từng được trao tặng Giải Bùi Xuân Phái cho hạng mục "Việc làm - Vì tình yêu Hà Nội". Cuốn sách vừa được xuất bản tháng 10. Ảnh: Wings Books.
Nhà hát Lớn Hà Nội (số 1 Tràng Tiền): Năm 1899, Hội đồng thành phố Hà Nội đệ trình xây dựng một nhà hát nhằm phục vụ nhu cầu giải trí của người Pháp tại Hà Nội. Công trình khởi công ngày 7/6/1901 và hoàn thành vào năm 1911, do hai kiến trúc sư là Harlay và Broyer thiết kế, trong quá trình thi công có sự tham gia của kiến trúc sư Lagisquet. Đây là công trình biểu diễn lớn nhất khu vực Đông Nam Á lúc bấy giờ và sau này luôn là trung tâm biểu diễn và văn hóa. Không chỉ còn có giá trị về mặt thẩm mỹ và kiến trúc, nó còn giá trị lịch sử đối với nhà nước Việt Nam vì đây là nơi diễn ra cuộc họp đầu tiên của Quốc hội nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tranh: Phạm Anh Quân.
Phủ Chủ tịch (số 2 Hùng Vương): Công trình khởi công xây dựng năm 1901 và hoàn thành năm 1906, do kiến trúc sư Auguste Henri Vildieu và Charles Lichtenfelder thiết kế. Công trình đươc tôn cao bởi các bậc thang vượt qua tầng bán hầm tạo vẻ uy nghi, bề thế. Với phong cách kiến trúc Tân cổ điển, không sử dụng mái mang-sa, các chi tiết trang trí đơn giản. Tranh: Bùi Mạnh Hà.
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia (số 1 Phạm Ngũ Lão): Công trình trước đây mang tên Viện Viễn Đông Bác cổ hay Bảo tàng Louis Finot, khởi công năm 1925 và hoàn thành năm 1932, do kiến trúc sư Ernest Hébrard thiết kế. Đây là công trình mang phong cách Đông Dương đầu tiên do Ernest Hébrard khởi xướng. Ông đã cố gắng tìm tòi các chi tiết kiến trúc gỗ truyền thống như mái, con sơn đỡ diềm mái và các ô văng cửa sổ. Đây là sự tìm tòi có giá trị, kết hợp giữa phong cách châu Âu và Á Đông. Tranh: Phạm Thanh Sơn.
Ga Hàng Cỏ (Ga Hà Nội - số 120 Lê Duẩn): Tháng 6/1898, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer chấp nhận dự án xây dựng ga đường sắt tại Hà Nội do kiến trúc sư Boreil và Vildieu thiết kế. Công trình khởi công xây dựng năm 1899 và hoàn thành vào năm 1902. Công trình mang đậm nét kiến trúc của châu Âu, ban đầu chỉ là dãy nhà chính trông ra đầu phố Trần Hưng Đạo, kinh phí do chính phủ Pháp kêu gọi các nhà đầu tư góp vốn. Đây là ga trung tâm của Hà Nội, từ đây tới Vân Nam qua Lào Cai hay qua Lạng Sơn tới Bằng Tường (Trung Quốc), đi Hải Phòng và tuyến Bắc Nam vào tới Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh). Năm 1972, bom Mỹ phá sập phần chính của ngôi nhà. Tranh: Trần Thị Thanh Thủy.
Nhà thờ Lớn Hà Nội (số 40 Nhà Chung): Nhà thờ được hoàn thành 1883, do linh mục Puginier chỉ đạo xây dựng theo mẫu hình từ châu Âu. Nhà thờ Lớn là nhà thờ có hai tháp chuông kiểu Gothic duy nhất ở Hà Nội, có thể xem như mẫu hình thu nhỏ của nhà thờ ở Paris. Tranh: Hoàng Phong (trái), Sutien Lokulprakit (phải).
Bộ Ngoại giao (số 1 Tôn Thất Đàm): Công trình này trước đây là Sở Tài chính Đông Dương, do Ernest Hébrard thiết kế, khởi công năm 1925 và tới năm 1928 thì hoàn thành. Công trình có phong cách Đông Dương, một số chi tiết mang tính bản địa kết hợp với phong cách châu Âu như hệ mái hắt trên các khung cửa. Từ khi trở thành trụ sở Bộ Ngoại giao của nhà nước Việt Nam, nơi đây đã chứng kiến nhiều cuộc họp đưa ra các quyết định có tính lịch sử về đường lối ngoại giao qua nhiều giai đoạn phát triển của Việt Nam. Tranh: Vương Long.
Nhà khách Chính phủ (trước đây là Bắc Bộ Phủ - số 12 Ngô Quyền): Hoàn thành năm 1911, do kiến trúc sư Auguste Henri Vildeu thiết kế, trước đây là Dinh Thống đốc Bắc Kỳ. Hiện nay công trình được sử dụng làm nhà khách của chính phủ. Công trình mang phong cách Tân cổ điển châu Âu, bố cục hình khối đơn giản, các trang trí cột được cách tân nhưng vẫn đạt hiệu quả thẩm mỹ. Công trình tạo được sự bề thế, sang trọng, đặc biệt với mái khu sảnh bằng kim loại ít được sử dụng trong thời kỳ đó. Tranh: Nguyễn Hoàng Lâm.
Đại học Tổng hợp Hà Nội (số 19 Lê Thánh Tông): Công trình trước đây là Đại học Đông Dương, được đưa vào sử dụng năm 1926, do kiến trúc sư Ernest Hébrard thiết kế, mang phong cách Đông Dương. Sự tìm tòi của Ernest Hébrard thể hiện ở việc kết hợp phong cách Tân cổ điển châu Âu với đặc điểm kiến trúc phù hợp khí hậu bản địa, tạo các mái vẩy trên ô cửa, rất hữu hiệu trong việc che mưa nắng vùng nhiệt đới. Gian chính có lối vào hoành tráng với các mô típ trang trí dùng họa tiết Á Đông. Tranh: Phạm Anh Quân.
Bưu điện Bờ Hồ (số 1 Lê Thạch): Đây là một trong những công trình công cộng thuộc loại đầu tiên người Pháp xây dựng tại Hà Nội, và tới nay nó vẫn được sử dụng với chức năng ban đầu. Công trình này do kiến trúc sư Auguste Henri Vildeu thiết kế, được đưa vào sử dụng năm 1896. Bưu điện Bờ Hồ nằm trong khu vực hành chính đầu tiên của Hà Nội và mang phong cách Cổ điển châu Âu với cách phân chia các tầng và mái mang-sa. Kiến trúc sư thiết kế thêm hàng hiên để phù hợp với khí hậu địa phương. Tranh: Trần Thị Thanh Thủy.
Cầu Long Biên: Cây cầu được khởi công xây dựng năm 1898 và hoàn thành năm 1902 nên có người gọi đây là cây cầu nối hai thế kỷ. Cầu do hai nhà thầu Daydé và Pille thi công. Kết cấu thép của cầu có độ dài gần 2 km, là cây cầu lớn nhất bắc qua sông Hồng lúc đó và cũng là cây cầu lớn nhất Đông Dương. Cầu được tổ chức đường sắt ở giữa, hai bên dành cho xe cộ, sau này làm thêm vỉa hè cho người đi bộ. Có thêm một điểm độc đáo nữa là chiều đi ngược với bình thường. Năm 1972, cầu bị bom Mỹ phá hỏng một số nhịp nên hình dáng bây giờ không còn nguyên vẹn như thuở ban đầu. Tranh: Sutien Lokulprakit
Cuốn sách Ấn tượng Hà Nội - Từ kí họa những công trình thời Pháp giới thiệu đến độc giả một không gian di sản kiến trúc Pháp tại Hà Nội. Đây là tác phẩm của Nhóm Kí họa Đô thị Hà Nội, nhóm tác giả từng được trao tặng Giải Bùi Xuân Phái cho hạng mục "Việc làm - Vì tình yêu Hà Nội". Cuốn sách vừa được xuất bản tháng 10. Ảnh: Wings Books.