Nguyễn Công Trứ tự là Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu là Hi Văn (1778-1858), người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Theo một số tài liệu, ông sinh ra ở Quỳnh Côi, Quỳnh Phụ, Thái Bình, năm 10 tuổi theo gia đình về quê cha ở Hà Tĩnh.Từ nhỏ, Nguyễn Công Trứ nổi tiếng học giỏi, hay thơ văn, tính cách phóng khoáng.Lận đận trong chuyện “lều chõng”, mãi đến năm 1819, khi đã 41 tuổi, Nguyễn Công Trứ mới thi đỗ Giải nguyên và được bổ làm quan. Ông làm quan ở các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, nổi tiếng là thanh liêm, chính trực, tài trí hơn người.Cuộc đời ông là những thăng trầm trong sự nghiệp. Ông được thăng thưởng quan tước nhiều lần vì những chiến công trong quân sự, kinh tế; nhưng với tính cách thẳng thắn vượt vòng kiêm tỏa, không màng danh lợi, không ít lần ông bị giáng phạt, nhiều lần giáng liền ba bốn cấp, năm 1843 còn bị cách tuột làm lính thú,…Năm 1847, ở tuổi 70, Nguyễn Công Trứ xin về hưu nhưng vua không đồng ý. Năm 1848, ông mới được về hưu hẳn. Nhưng, năm Mậu Ngọ (1858), khi thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, đã 80 tuổi, ông vẫn tha thiết xin vua được tòng quân đi đánh giặc. Thấy ông tuổi già sức yếu, vua đã không chuẩn y.Công lao của Nguyễn Công Trứ được ghi nhận ở nhiều lĩnh vực. Ông có sáng kiến chiêu mộ dân nghèo, đắp đê lấn biển, lập ấp, khai sinh các huyện Kim Sơn (thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay), Tiền Hải (thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay)…Ngoài việc khai khẩn đất đai, Nguyễn Công Trứ còn có công làm yên những cuộc khởi nghĩa nông dân của Phan Bá Vành ở Nam Định, của Nùng Văn Vân ở Tuyên Quang...Ông còn chăm lo cho cuộc sống đói nghèo của nông dân, đề nghị "đặt nhà học" cho con em nhân dân, "đặt xã thương" ở các làng để quản lý thóc gạo và rất nhiều công việc khác nhằm đảm bảo cuộc sống cho dân.Không chỉ là nhà quân sự, nhà khẩn hoang, Nguyễn Công Trứ còn là nhà thơ nổi bật trong nền văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19. Thơ ca của Nguyễn Công Trứ xoay quanh các chủ đề như chí nam nhi "Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”.Ông cũng viết nhiều về thế thái nhân tình như "Tau ở nhà tau, tau nhớ mi/ Nhớ mi nên phải bước chân đi/ Không đi mi nói: răng không đến?/ Đến thì mi nói: đến làm chi". (Ảnh: Khu di tích đền thờ Nguyễn Công Trứ)Nổi tiếng bậc nhất trong các áng thơ ca của Nguyễn Công Trứ có thể kể đến "Bài ca ngất ngưởng" thể hiện chất ngông đầy khí phách của Nguyễn Công Trứ. (Ảnh: Khu di tích đền thờ Nguyễn Công Trứ).Ngày nay, các nhà sử học đều khẳng định, Nguyễn Công Trứ là một trí thức lớn, một nhà chính trị và nhà thơ lớn của dân tộc. Cuộc đời ông là bản hùng ca về khí phách nam nhi và cái ngông của bậc dũng tướng. (Ảnh: Lễ hội đền Nguyễn Công Trứ). Mời độc giả xem video:Trào lưu "ăn tươi nuốt sống" tràn lan trên MXH. Nguồn: VTV24.
Nguyễn Công Trứ tự là Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu là Hi Văn (1778-1858), người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Theo một số tài liệu, ông sinh ra ở Quỳnh Côi, Quỳnh Phụ, Thái Bình, năm 10 tuổi theo gia đình về quê cha ở Hà Tĩnh.
Từ nhỏ, Nguyễn Công Trứ nổi tiếng học giỏi, hay thơ văn, tính cách phóng khoáng.
Lận đận trong chuyện “lều chõng”, mãi đến năm 1819, khi đã 41 tuổi, Nguyễn Công Trứ mới thi đỗ Giải nguyên và được bổ làm quan. Ông làm quan ở các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, nổi tiếng là thanh liêm, chính trực, tài trí hơn người.
Cuộc đời ông là những thăng trầm trong sự nghiệp. Ông được thăng thưởng quan tước nhiều lần vì những chiến công trong quân sự, kinh tế; nhưng với tính cách thẳng thắn vượt vòng kiêm tỏa, không màng danh lợi, không ít lần ông bị giáng phạt, nhiều lần giáng liền ba bốn cấp, năm 1843 còn bị cách tuột làm lính thú,…
Năm 1847, ở tuổi 70, Nguyễn Công Trứ xin về hưu nhưng vua không đồng ý. Năm 1848, ông mới được về hưu hẳn. Nhưng, năm Mậu Ngọ (1858), khi thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, đã 80 tuổi, ông vẫn tha thiết xin vua được tòng quân đi đánh giặc. Thấy ông tuổi già sức yếu, vua đã không chuẩn y.
Công lao của Nguyễn Công Trứ được ghi nhận ở nhiều lĩnh vực. Ông có sáng kiến chiêu mộ dân nghèo, đắp đê lấn biển, lập ấp, khai sinh các huyện Kim Sơn (thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay), Tiền Hải (thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay)…
Ngoài việc khai khẩn đất đai, Nguyễn Công Trứ còn có công làm yên những cuộc khởi nghĩa nông dân của Phan Bá Vành ở Nam Định, của Nùng Văn Vân ở Tuyên Quang...
Ông còn chăm lo cho cuộc sống đói nghèo của nông dân, đề nghị "đặt nhà học" cho con em nhân dân, "đặt xã thương" ở các làng để quản lý thóc gạo và rất nhiều công việc khác nhằm đảm bảo cuộc sống cho dân.
Không chỉ là nhà quân sự, nhà khẩn hoang, Nguyễn Công Trứ còn là nhà thơ nổi bật trong nền văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19. Thơ ca của Nguyễn Công Trứ xoay quanh các chủ đề như chí nam nhi "Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”.
Ông cũng viết nhiều về thế thái nhân tình như "Tau ở nhà tau, tau nhớ mi/ Nhớ mi nên phải bước chân đi/ Không đi mi nói: răng không đến?/ Đến thì mi nói: đến làm chi". (Ảnh: Khu di tích đền thờ Nguyễn Công Trứ)
Nổi tiếng bậc nhất trong các áng thơ ca của Nguyễn Công Trứ có thể kể đến "Bài ca ngất ngưởng" thể hiện chất ngông đầy khí phách của Nguyễn Công Trứ. (Ảnh: Khu di tích đền thờ Nguyễn Công Trứ).
Ngày nay, các nhà sử học đều khẳng định, Nguyễn Công Trứ là một trí thức lớn, một nhà chính trị và nhà thơ lớn của dân tộc. Cuộc đời ông là bản hùng ca về khí phách nam nhi và cái ngông của bậc dũng tướng. (Ảnh: Lễ hội đền Nguyễn Công Trứ).
Mời độc giả xem video:Trào lưu "ăn tươi nuốt sống" tràn lan trên MXH. Nguồn: VTV24.