Mộ Tôn Quyền: Cho đến nay, phần mộ của Ngô Vương Tôn Quyền chính xác nằm ở đâu vẫn là một điều bí mật. Theo truyền thuyết, phần mộ này đặt trên núi Mai Hoa ở thành phố Nam Kinh ngày nay.Truyền thuyết nói: Khi hoàng đế đầu nhà Minh là Chu Nguyên Chương chọn đất xây mộ, một số quần thần cho rằng khu đất này quá gần lăng mộ Tôn Quyền, và đề nghị dời mộ Tôn Quyền đi nơi khác. Chu Nguyên Chương trả lời: “Tôn Quyền cùng với Thục, Ngụy tạo ra thế chân vạc thời Tam quốc, cũng là anh hùng một thời, để người đó lại trông mộ đạo cho ta”.Mai Hoa sơn là tên gọi được đặt từ những năm 30 của thế kỉ trước, khi chính phủ Dân quốc cho trồng hoa mai trên đó. Trước kia, nơi này được gọi là Tôn Lăng Cương (núi có lăng mộ Tôn Quyền), hoặc Ngô Vương Phần (mộ Ngô Vương). Ảnh: Vai Tôn Quyền của Ngô Hiểu Đông (trái) và Trương Bác (phải) trên phim ảnh.
Mộ Lưu Bị: Năm 223, Lưu Bị mất ở cung Vĩnh An, Phụng Tiết, Tứ Xuyên. Về nơi an táng của ông, đến nay có 3 giả thuyết: Thuyết thứ nhất nói mộ ông nằm ở ngay phía Tây chính điện trong đền thờ Vũ Hầu (Gia Cát Lượng) ở Thành Đô, lịch sử vẫn gọi là Huệ Lăng. Hậu Chủ (Lưu Thiện, con trai Lưu Bị) sau này theo chủ ý của Gia Cát Lượng đưa hai vị phu nhân họ Cam và họ Ngô về hợp táng tại đây. Thuyết thứ hai do nhà nghiên cứu văn hóa Trung Quốc nổi tiếng Quách Mạt Nhược đưa ra năm 1961, khi khảo sát tại Phụng Tiết. Ông cho rằng, Lưu Bị mất vào mùa hè, thời tiết nóng nực, từ Phụng Tiết đến Thành Đô lại ngược dòng, ít nhất cũng phải mất đến 30 ngày đường, không phải là phương án hợp lí, nên khả năng Lưu Bị được an táng ngay tại Phụng Tiết là rất cao.Thuyết thứ 3 nói rằng mộ Lưu Bị nằm ở Bành Sơn, Tứ Xuyên. Mộ Quan Công: Sau khi rời khỏi Mạch Thành, Quan Vũ bị các bộ tướng của Tôn Quyền là Phan Chương, Lữ Cung sát hại. Tôn Quyền đưa đầu Quan Vũ tặng cho Tào Tháo bấy giờ đang ở Lạc Dương. Tào Tháo kính trọng Quan Công là người trung nghĩa, sai chạm gỗ trầm hương làm thân mình, ghép vào, rồi cho an táng ở Lạc Dương theo nghi thức dành cho vương hầu. Khu chôn đầu Quan Vũ ở Lạc Dương được gọi là Vũ Lâm, rộng hơn 130ha, nằm cách thành phố Lạc Dương 7km về phía Nam, là quần thể kiến trúc cổ đại duy nhất ở Trung Quốc bao gồm cả mộ, miếu và rừng. Ở Đương Dương, tỉnh Hồ Bắc, có mộ chôn phần thân của Quan Vũ, gọi là lăng như mộ của các đế vương. Trong khi đó, ở huyện Giải, tỉnh Sơn Tây cũng xây mộ táng phần hồn cho ông (do Quan Công chết không toàn thây), còn ở Thành Đô, Tứ Xuyên có mộ táng áo mũ của ông. Đầu, thân, hồn, áo mũ của Quan Công đều có mộ riêng... Mộ Gia Cát Lượng: Năm Kiến Hưng thứ 12 (234), khi đang đánh nhau với quân Ngụy, Gia Cát Lượng lâm bệnh nặng và mất ở ngoài mặt trận. Ông để lại di chúc muốn xây mộ dựa lưng vào núi, huyệt mộ nhỏ vừa đặt quan tài là được, lúc liệm mặc quần áo thường ngày, không cần chôn theo bất cứ thứ gì. Đa số cho rằng ông được an táng ở dưới chân núi Định Quân, thuộc huyện Miễn, tỉnh Thiểm Tây. Tên núi này cũng bắt nguồn từ việc Gia Cát khi đưa quân lên Hán Trung bắc phạt từng đóng trại tại đây. Nhưng truyền thuyết dân gian lại cho rằng, Gia Cát Lượng đã chuẩn bị hậu sự cho mình hết sức cẩn thận và bí mật. Tương truyền, quan tài ông được 4 binh sĩ khiêng về phía Nam, đến khi nào đòn gãy, thừng đứt thì chôn ngay tại nơi đó. Ông thực sự được an táng ở đâu, đến nay chưa ai tìm thấy.Trên đất Trung Hoa, rất nhiều nơi đã lập đền thờ Vũ Hầu để tưởng nhớ Gia Cát Lượng, trong đó nổi tiếng nhất là đền thờ ở huyện Miễn, dưới chân núi Định Quân, sau đó đến miếu Vũ Hầu ở Thành Đô, miếu Vũ Hầu ở thành Bạch Đế, huyện Phụng Tiết, Trùng Khánh, v.v…Ảnh: Đền thờ Gia Cát Lượng ở Thành Đô.
Mộ Trương Phi: Theo ghi chép trong sử sách, năm Chương Vũ thứ nhất, Trương Phi bị bộ tướng của mình ám sát ở Lãng Trung, hai tên này mang thủ cấp của ông đến nộp cho Đông Ngô, đi đến Vân Dương thì nghe tin Ngô - Thục đã giảng hòa, liền đem thủ cấp vứt xuống sông. Một ông chài nhặt được mang lên bờ chôn. Từ đó mà có thuyết “Trương Phi đầu ở Vân Dương, mình ở Lãng Trung". Miếu Trương Phi ở Lãng Trung nằm ở phía tây khu cổ thành, thành phố Lãng Trung, tỉnh Tứ Xuyên. Sau khi lấy được Ích Châu, Lưu Bị đã sai ông đến đóng quân ở đây trong 7 năm. Ngoài ra, tương truyền, khi hai bộ tướng của Trương Phi là Trương Đạt, Phạm Cương vứt đầu ông xuống sông, có người chài đang đêm mơ thấy Trương Phi báo mộng, đến sông buông lưới vớt thủ cấp của ông, vớt được một hũ vàng, bèn dùng vàng đó xây miếu Trương Phi ở Vân Dương. Sử sách ghi nhận miếu này đã có 1.700 năm lịch sử. Mộ Hoa Đà: Sau khi bị Tào Tháo giết, Hoa Đà được chôn ở Hà Nam, bên bờ Tây sông Thạch Hà, thôn Tô Kiều, cách thành Hứa Xương 15km.
Mộ cao 4m, rộng 360m2, hình oval. Năm Càn Long thứ 17 (1752), vua đã cho lập bia đá khắc dòng chữ: “Hán thần y Hoa công mộ” (phần mộ thần y họ Hoa đời Hán). Năm 1993, mộ Hoa Đà được chính quyền Hứa Xương công nhận là di tích văn hóa.
Mộ Tôn Quyền: Cho đến nay, phần mộ của Ngô Vương Tôn Quyền chính xác nằm ở đâu vẫn là một điều bí mật. Theo truyền thuyết, phần mộ này đặt trên núi Mai Hoa ở thành phố Nam Kinh ngày nay.
Truyền thuyết nói: Khi hoàng đế đầu nhà Minh là Chu Nguyên Chương chọn đất xây mộ, một số quần thần cho rằng khu đất này quá gần lăng mộ Tôn Quyền, và đề nghị dời mộ Tôn Quyền đi nơi khác. Chu Nguyên Chương trả lời: “Tôn Quyền cùng với Thục, Ngụy tạo ra thế chân vạc thời Tam quốc, cũng là anh hùng một thời, để người đó lại trông mộ đạo cho ta”.
Mai Hoa sơn là tên gọi được đặt từ những năm 30 của thế kỉ trước, khi chính phủ Dân quốc cho trồng hoa mai trên đó. Trước kia, nơi này được gọi là Tôn Lăng Cương (núi có lăng mộ Tôn Quyền), hoặc Ngô Vương Phần (mộ Ngô Vương). Ảnh: Vai Tôn Quyền của Ngô Hiểu Đông (trái) và Trương Bác (phải) trên phim ảnh.
Mộ Lưu Bị: Năm 223, Lưu Bị mất ở cung Vĩnh An, Phụng Tiết, Tứ Xuyên. Về nơi an táng của ông, đến nay có 3 giả thuyết: Thuyết thứ nhất nói mộ ông nằm ở ngay phía Tây chính điện trong đền thờ Vũ Hầu (Gia Cát Lượng) ở Thành Đô, lịch sử vẫn gọi là Huệ Lăng. Hậu Chủ (Lưu Thiện, con trai Lưu Bị) sau này theo chủ ý của Gia Cát Lượng đưa hai vị phu nhân họ Cam và họ Ngô về hợp táng tại đây.
Thuyết thứ hai do nhà nghiên cứu văn hóa Trung Quốc nổi tiếng Quách Mạt Nhược đưa ra năm 1961, khi khảo sát tại Phụng Tiết. Ông cho rằng, Lưu Bị mất vào mùa hè, thời tiết nóng nực, từ Phụng Tiết đến Thành Đô lại ngược dòng, ít nhất cũng phải mất đến 30 ngày đường, không phải là phương án hợp lí, nên khả năng Lưu Bị được an táng ngay tại Phụng Tiết là rất cao.
Thuyết thứ 3 nói rằng mộ Lưu Bị nằm ở Bành Sơn, Tứ Xuyên.
Mộ Quan Công: Sau khi rời khỏi Mạch Thành, Quan Vũ bị các bộ tướng của Tôn Quyền là Phan Chương, Lữ Cung sát hại. Tôn Quyền đưa đầu Quan Vũ tặng cho Tào Tháo bấy giờ đang ở Lạc Dương. Tào Tháo kính trọng Quan Công là người trung nghĩa, sai chạm gỗ trầm hương làm thân mình, ghép vào, rồi cho an táng ở Lạc Dương theo nghi thức dành cho vương hầu.
Khu chôn đầu Quan Vũ ở Lạc Dương được gọi là Vũ Lâm, rộng hơn 130ha, nằm cách thành phố Lạc Dương 7km về phía Nam, là quần thể kiến trúc cổ đại duy nhất ở Trung Quốc bao gồm cả mộ, miếu và rừng.
Ở Đương Dương, tỉnh Hồ Bắc, có mộ chôn phần thân của Quan Vũ, gọi là lăng như mộ của các đế vương. Trong khi đó, ở huyện Giải, tỉnh Sơn Tây cũng xây mộ táng phần hồn cho ông (do Quan Công chết không toàn thây), còn ở Thành Đô, Tứ Xuyên có mộ táng áo mũ của ông. Đầu, thân, hồn, áo mũ của Quan Công đều có mộ riêng...
Mộ Gia Cát Lượng: Năm Kiến Hưng thứ 12 (234), khi đang đánh nhau với quân Ngụy, Gia Cát Lượng lâm bệnh nặng và mất ở ngoài mặt trận. Ông để lại di chúc muốn xây mộ dựa lưng vào núi, huyệt mộ nhỏ vừa đặt quan tài là được, lúc liệm mặc quần áo thường ngày, không cần chôn theo bất cứ thứ gì. Đa số cho rằng ông được an táng ở dưới chân núi Định Quân, thuộc huyện Miễn, tỉnh Thiểm Tây. Tên núi này cũng bắt nguồn từ việc Gia Cát khi đưa quân lên Hán Trung bắc phạt từng đóng trại tại đây.
Nhưng truyền thuyết dân gian lại cho rằng, Gia Cát Lượng đã chuẩn bị hậu sự cho mình hết sức cẩn thận và bí mật. Tương truyền, quan tài ông được 4 binh sĩ khiêng về phía Nam, đến khi nào đòn gãy, thừng đứt thì chôn ngay tại nơi đó. Ông thực sự được an táng ở đâu, đến nay chưa ai tìm thấy.
Trên đất Trung Hoa, rất nhiều nơi đã lập đền thờ Vũ Hầu để tưởng nhớ Gia Cát Lượng, trong đó nổi tiếng nhất là đền thờ ở huyện Miễn, dưới chân núi Định Quân, sau đó đến miếu Vũ Hầu ở Thành Đô, miếu Vũ Hầu ở thành Bạch Đế, huyện Phụng Tiết, Trùng Khánh, v.v…Ảnh: Đền thờ Gia Cát Lượng ở Thành Đô.
Mộ Trương Phi: Theo ghi chép trong sử sách, năm Chương Vũ thứ nhất, Trương Phi bị bộ tướng của mình ám sát ở Lãng Trung, hai tên này mang thủ cấp của ông đến nộp cho Đông Ngô, đi đến Vân Dương thì nghe tin Ngô - Thục đã giảng hòa, liền đem thủ cấp vứt xuống sông. Một ông chài nhặt được mang lên bờ chôn. Từ đó mà có thuyết “Trương Phi đầu ở Vân Dương, mình ở Lãng Trung". Miếu Trương Phi ở Lãng Trung nằm ở phía tây khu cổ thành, thành phố Lãng Trung, tỉnh Tứ Xuyên. Sau khi lấy được Ích Châu, Lưu Bị đã sai ông đến đóng quân ở đây trong 7 năm.
Ngoài ra, tương truyền, khi hai bộ tướng của Trương Phi là Trương Đạt, Phạm Cương vứt đầu ông xuống sông, có người chài đang đêm mơ thấy Trương Phi báo mộng, đến sông buông lưới vớt thủ cấp của ông, vớt được một hũ vàng, bèn dùng vàng đó xây miếu Trương Phi ở Vân Dương. Sử sách ghi nhận miếu này đã có 1.700 năm lịch sử.
Mộ Hoa Đà: Sau khi bị Tào Tháo giết, Hoa Đà được chôn ở Hà Nam, bên bờ Tây sông Thạch Hà, thôn Tô Kiều, cách thành Hứa Xương 15km.
Mộ cao 4m, rộng 360m2, hình oval. Năm Càn Long thứ 17 (1752), vua đã cho lập bia đá khắc dòng chữ: “Hán thần y Hoa công mộ” (phần mộ thần y họ Hoa đời Hán). Năm 1993, mộ Hoa Đà được chính quyền Hứa Xương công nhận là di tích văn hóa.