Từ tháng 8/1942 đến đầu năm 1944, các chiến dịch của hải quân Mỹ đã đánh bật lực lượng hải quân Nhật Bản ra khỏi các hòn đảo ở phía Nam và trung tâm Thái Bình Dương. Giữa năm 1944, hải quân Mỹ đã chiếm được một số đảo quan trọng làm căn cứ cho máy bay ném bom B-29, xuất phát tấn công các đảo chính của Nhật Bản.Sau khi xem xét các yếu tố chiến lược, hải quân Mỹ quyết định mở cuộc tấn công vào Philippines, nhằm cắt đứt tuyến vận tải biển chiến lược của Nhật Bản qua vịnh Leyte. Việc đánh bật lực lượng hải quân đế quốc Nhật Bản tại đây, sẽ là chìa khóa để cô lập các quốc gia mà Nhật chiếm đóng và cắt huyết mạch của nền công nghiệp quốc phòng xứ sở mặt trời mọc.Để phục vụ cho cuộc tấn công vào Philippines, hải quân Mỹ đã huy động hạm đội 3 và hạm đội 7. Hạm đội 7 do Phó đô đốc Thomas C. Kinkaid chỉ huy, chịu trách nhiệm đổ bộ, chi viện hỏa lực cho lực lượng lục quân của tướng MacArthur, đánh chiếm miền trung Philippines. Hạm đội 7 có sự hỗ trợ của một số tàu chiến của hải quân Hoàng gia Australia.Hạm đội 3 do Đô đốc William F. HalseyJr chỉ huy, phối hợp với Lực lượng đặc nhiệm 38 hạm đội Thái Bình Dương, hỗ trợ hỏa lực từ xa và ngăn chặn hải quân Nhật Bản. Lỗi khá nghiêm trọng trong chiến dịch là không có tổng chỉ huy chung. Hạm đội 7 chịu sự chỉ huy của tướng MacArthur, Tư lệnh lực lượng đồng minh ở tây nam Thái Bình Dương.Về lực lượng, hải quân Mỹ đã huy động 8 hạm đội tàu sân bay, 8 tàu sân bay hạng nhẹ, 18 tàu hộ tống, 12 thiết giáp hạm, 24 tuần dương hạm, 166 tàu khu trục và hơn 1.500 máy bay chiến đấu. Tổng số tàu chiến các loại lên đến 800 chiếc.Về phía Nhật Bản, nhận thức rõ vai trò chiến lược của Philippines đối với cuộc chiến, hạm đội Liên hợp Nhật Bản đã huy động gần như toàn bộ lực lượng, để bảo vệ Philippines trước cuộc tấn công của lực lượng đồng minh. Tư lệnh hạm đội Liên hợp Soemu Toyoda, đã lên 4 kế hoạch chiến thắng còn gọi là Shō-Gō từ 1 đến 4.Lực lượng gồm có 3 hạm đội tàu sân bay, 3 tàu sân bay hạng nhẹ, 9 thiết giáp hạm, trong đó có thiết giáp hạm Yamato tàu chiến mạnh nhất thế giới lúc đó, 14 tàu tuần dương hạng nặng, 6 tuần dương hạm hạng nhẹ, 35 tàu khu trục, 300 máy bay các loại. Tổng số tàu chiến các loại gần 70 chiếc.Ngày 12/10/1944, hạm đội 3 tấn công các sân bay ở đảo Đài Loan và quần đảo Ryukyu, nhằm tiêu diệt lực lượng không quân Nhật Bản tại đây, dọn đường cho cuộc đổ bộ vào Leyte. Bộ Tư lệnh hạm đội Liên hợp phát động chiến dịch Shō-Gō-2, tấn công vào hạm đội 3, song đã bị đánh bại.Nhật Bản lập tức chuyển sang Shō-Gō-1, Phó đô đốc Jisaburō Ozawa chỉ huy tấn công phía Bắc, thu hút lực lượng Mỹ ra khỏi vịnh Leyte. Mũi tấn công này làm nhiệm vụ mồi nhử, khi đó hai mũi tấn công phía Nam do Phó đô đốc Shoji Nishimura chỉ huy, tấn công vào eo biển Surigao. Mũi tấn công trung tâm do Phó đô đốc Takeo Kurita chỉ huy, tấn công qua eo biển San Bernardino.Các chỉ huy hải quân Nhật Bản cho rằng, kế hoạch tấn công này quá liều lĩnh và có thể dẫn đến sự hủy diệt của toàn bộ lực lượng tấn công. Tư lệnh Toyoda giải thích rằng, nếu không thể giữ được Philippines, thì việc bảo toàn lực lượng chiến đấu của các hạm đội sẽ trở nên vô nghĩa.Trận hải chiến vịnh Leyte bao gồm 4 trận đánh tại biển Sibuyan, biển Surigao, Cape Engaño và Samar. Trong trận hải chiến này, lần đầu các máy bay chiến đấu Nhật Bản thực hiện tấn công cảm tử “Kamikaze” một cách có tổ chức.Ngày 20/10/1944, hải quân Mỹ bắt đầu tấn công Leyte. Cuộc chạm trán giữa hải quân đôi bên lên đến đỉnh điểm của sự ác liệt, với quy mô chưa từng có kéo dài từ ngày 23-26/10/1944. Trận hải chiến vịnh Leyte đã trở thành trận đánh hải quân lớn nhất chiến tranh thế giới thứ 2, cũng như trong lịch sử hải chiến của nhân loại.Với sức mạnh áp đảo, hải quân Mỹ nhanh chóng đánh bại hạm đội Liên hợp Nhật Bản. Thất bại tại vịnh Leyte, đã khiến hải quân Nhật Bản gần như bị tê liệt hoàn toàn. Số tàu chiến còn lại dần mất sức chiến đấu, do không được cung cấp đầy đủ nhiên liệu và đạn dược. Huyết mạch nền công nghiệp quốc phòng Nhật Bản từ phía Nam bị cắt đứt hoàn toàn.Hải quân Mỹ có lực lượng tàu chiến gấp 11,4 lần, số máy bay gấp 2,5 lần, nhưng cũng phải chịu tổn thất không hề nhỏ, 1 tàu sân bay hạng nhẹ, 2 tàu hộ tống sân bay, 2 tàu khu trục, 1 tàu khu trục hộ tống bị đánh chìm, 4 tàu chiến khác của Mỹ và Australia bị hư hỏng nặng, 200 máy bay bị bắn hạ, hơn 2.800 người thiệt mạng và bị thương.Về phía Nhật Bản, 1 tàu sân bay, 3 tàu sân bay hạng nhẹ, 3 thiết giáp hạm, 10 tàu tuần dương, 11 tàu khu trục bị đánh chìm, 300 máy bay bị bắn rơi, thương vong 12.500. Thiệt hại quá lớn, cùng với sự sụt giảm về sản xuất quốc phòng, dẫn đến hạm đội Liên hợp Nhật Bản và quân đội Nhật Bản dần mất sức chiến đấu, rồi bị đánh bại hoàn toàn. Nguồn ảnh: Warhistory.
Từ tháng 8/1942 đến đầu năm 1944, các chiến dịch của hải quân Mỹ đã đánh bật lực lượng hải quân Nhật Bản ra khỏi các hòn đảo ở phía Nam và trung tâm Thái Bình Dương. Giữa năm 1944, hải quân Mỹ đã chiếm được một số đảo quan trọng làm căn cứ cho máy bay ném bom B-29, xuất phát tấn công các đảo chính của Nhật Bản.
Sau khi xem xét các yếu tố chiến lược, hải quân Mỹ quyết định mở cuộc tấn công vào Philippines, nhằm cắt đứt tuyến vận tải biển chiến lược của Nhật Bản qua vịnh Leyte. Việc đánh bật lực lượng hải quân đế quốc Nhật Bản tại đây, sẽ là chìa khóa để cô lập các quốc gia mà Nhật chiếm đóng và cắt huyết mạch của nền công nghiệp quốc phòng xứ sở mặt trời mọc.
Để phục vụ cho cuộc tấn công vào Philippines, hải quân Mỹ đã huy động hạm đội 3 và hạm đội 7. Hạm đội 7 do Phó đô đốc Thomas C. Kinkaid chỉ huy, chịu trách nhiệm đổ bộ, chi viện hỏa lực cho lực lượng lục quân của tướng MacArthur, đánh chiếm miền trung Philippines. Hạm đội 7 có sự hỗ trợ của một số tàu chiến của hải quân Hoàng gia Australia.
Hạm đội 3 do Đô đốc William F. HalseyJr chỉ huy, phối hợp với Lực lượng đặc nhiệm 38 hạm đội Thái Bình Dương, hỗ trợ hỏa lực từ xa và ngăn chặn hải quân Nhật Bản. Lỗi khá nghiêm trọng trong chiến dịch là không có tổng chỉ huy chung. Hạm đội 7 chịu sự chỉ huy của tướng MacArthur, Tư lệnh lực lượng đồng minh ở tây nam Thái Bình Dương.
Về lực lượng, hải quân Mỹ đã huy động 8 hạm đội tàu sân bay, 8 tàu sân bay hạng nhẹ, 18 tàu hộ tống, 12 thiết giáp hạm, 24 tuần dương hạm, 166 tàu khu trục và hơn 1.500 máy bay chiến đấu. Tổng số tàu chiến các loại lên đến 800 chiếc.
Về phía Nhật Bản, nhận thức rõ vai trò chiến lược của Philippines đối với cuộc chiến, hạm đội Liên hợp Nhật Bản đã huy động gần như toàn bộ lực lượng, để bảo vệ Philippines trước cuộc tấn công của lực lượng đồng minh. Tư lệnh hạm đội Liên hợp Soemu Toyoda, đã lên 4 kế hoạch chiến thắng còn gọi là Shō-Gō từ 1 đến 4.
Lực lượng gồm có 3 hạm đội tàu sân bay, 3 tàu sân bay hạng nhẹ, 9 thiết giáp hạm, trong đó có thiết giáp hạm Yamato tàu chiến mạnh nhất thế giới lúc đó, 14 tàu tuần dương hạng nặng, 6 tuần dương hạm hạng nhẹ, 35 tàu khu trục, 300 máy bay các loại. Tổng số tàu chiến các loại gần 70 chiếc.
Ngày 12/10/1944, hạm đội 3 tấn công các sân bay ở đảo Đài Loan và quần đảo Ryukyu, nhằm tiêu diệt lực lượng không quân Nhật Bản tại đây, dọn đường cho cuộc đổ bộ vào Leyte. Bộ Tư lệnh hạm đội Liên hợp phát động chiến dịch Shō-Gō-2, tấn công vào hạm đội 3, song đã bị đánh bại.
Nhật Bản lập tức chuyển sang Shō-Gō-1, Phó đô đốc Jisaburō Ozawa chỉ huy tấn công phía Bắc, thu hút lực lượng Mỹ ra khỏi vịnh Leyte. Mũi tấn công này làm nhiệm vụ mồi nhử, khi đó hai mũi tấn công phía Nam do Phó đô đốc Shoji Nishimura chỉ huy, tấn công vào eo biển Surigao. Mũi tấn công trung tâm do Phó đô đốc Takeo Kurita chỉ huy, tấn công qua eo biển San Bernardino.
Các chỉ huy hải quân Nhật Bản cho rằng, kế hoạch tấn công này quá liều lĩnh và có thể dẫn đến sự hủy diệt của toàn bộ lực lượng tấn công. Tư lệnh Toyoda giải thích rằng, nếu không thể giữ được Philippines, thì việc bảo toàn lực lượng chiến đấu của các hạm đội sẽ trở nên vô nghĩa.
Trận hải chiến vịnh Leyte bao gồm 4 trận đánh tại biển Sibuyan, biển Surigao, Cape Engaño và Samar. Trong trận hải chiến này, lần đầu các máy bay chiến đấu Nhật Bản thực hiện tấn công cảm tử “Kamikaze” một cách có tổ chức.
Ngày 20/10/1944, hải quân Mỹ bắt đầu tấn công Leyte. Cuộc chạm trán giữa hải quân đôi bên lên đến đỉnh điểm của sự ác liệt, với quy mô chưa từng có kéo dài từ ngày 23-26/10/1944. Trận hải chiến vịnh Leyte đã trở thành trận đánh hải quân lớn nhất chiến tranh thế giới thứ 2, cũng như trong lịch sử hải chiến của nhân loại.
Với sức mạnh áp đảo, hải quân Mỹ nhanh chóng đánh bại hạm đội Liên hợp Nhật Bản. Thất bại tại vịnh Leyte, đã khiến hải quân Nhật Bản gần như bị tê liệt hoàn toàn. Số tàu chiến còn lại dần mất sức chiến đấu, do không được cung cấp đầy đủ nhiên liệu và đạn dược. Huyết mạch nền công nghiệp quốc phòng Nhật Bản từ phía Nam bị cắt đứt hoàn toàn.
Hải quân Mỹ có lực lượng tàu chiến gấp 11,4 lần, số máy bay gấp 2,5 lần, nhưng cũng phải chịu tổn thất không hề nhỏ, 1 tàu sân bay hạng nhẹ, 2 tàu hộ tống sân bay, 2 tàu khu trục, 1 tàu khu trục hộ tống bị đánh chìm, 4 tàu chiến khác của Mỹ và Australia bị hư hỏng nặng, 200 máy bay bị bắn hạ, hơn 2.800 người thiệt mạng và bị thương.
Về phía Nhật Bản, 1 tàu sân bay, 3 tàu sân bay hạng nhẹ, 3 thiết giáp hạm, 10 tàu tuần dương, 11 tàu khu trục bị đánh chìm, 300 máy bay bị bắn rơi, thương vong 12.500. Thiệt hại quá lớn, cùng với sự sụt giảm về sản xuất quốc phòng, dẫn đến hạm đội Liên hợp Nhật Bản và quân đội Nhật Bản dần mất sức chiến đấu, rồi bị đánh bại hoàn toàn. Nguồn ảnh: Warhistory.