Cá sấu mũi hẹp Trung Phi (Mecistops leptorhynchus) dài 2,5 mét, từng được coi là một phân loài của cá sấu mũi hẹp Tây Phi. Chúng được "nâng cấp" thành một loài riêng sau các nghiên cứu được tiến hành năm 2014 và 2018.Cá sấu còi châu Phi (Osteolaemus tetraspis) dài 2 mét, sống trong rừng nhiệt đới châu Phi. Loài cá sấu nhỏ này kiếm mồi ban đêm, chuyện bắt cá và ếch.Cá sấu lùn Osborn (Osteolaemus osborni) dài 1,5 mét, là một loài cá sấu đặc hữu của lưu vực sông Congo ở châu Phi. Chúng được mô tả lần đầu vào năm 1919, xác định là loài mới năm 1948, "giáng cấp" thành phân loài của cá sấu còi châu Phi năm 1961 và lại khôi phục tư cách một loài riêng vào năm 2021.Cá sấu mõm dài Ấn Độ hay cá sấu sông Hằng (Gavialis gangeticus) dài 7 mét, là loài cá sấu bản địa của lục địa Ấn Độ. Dù là một trong những loài cá sấu lớn nhất, chúng chỉ bắt cá bằng bộ hàm giống cái kẹp của mình. Chưa có vụ tấn công con người nào ở loài này được ghi nhận.Cá sấu Mã Lai (Tomistoma schlegelii) dài 5 mét, sống trong các hệ thống sông ở Indonesia và Malaysia. Không giống như các loài cá sấu khác, cá sấu Mã Lai con không được cha mẹ bảo vệ.Cá sấu mõm rộng Mỹ (Alligator mississippiensis) dài 5 mét, phân bố ở Bắc Mỹ. Từng rơi vào tình trạng nguy cấp, loài cá sấu này đã phục hồi và trở nên phổ biến nhờ các nỗ lực bảo tồn. Chúng ăn chim, thú nhỏ và rùa.Cá sấu mõm rộng Trung Quốc hay cá sấu sông Dương Tử (Alligator sinensis) dài 2 mét, được ghi nhận ở thung lũng sông Dương Tử ở Trung Quốc. Loài cá sấu nguy cấp này ngủ trong hang suốt mùa đông lạnh giá.Cá sấu Caiman đeo kính (Caiman crocodilus) dài 2,5 mét, phân bố rộng ở Trung và Nam Mỹ. Loài này ăn nhiều loại con mồi khác nhau. Có lẽ chúng là loài cá sấu duy nhất trú ngụ ở các sinh cảnh nước nhân tạo.Cá sấu Caiman mõm rộng (Caiman latirostris) dài 3 mét, có mặt ở hầu khắp vùng trung tâm lục địa Nam Mỹ. Loài cá sấu có cái mõm rộng này làm tổ thành ụ. Chúng săn chim và thú.Cá sấu Yacare (Caiman yacare) dài 3 mét, sinh sống tại miền trung của Nam Mỹ. Chế độ ăn của chúng gồm cá (nhất là piranha), chim, bò sát nhỏ, và động vật có vú nhỏ. Đây là một trong những loài cá sấu có dân số đông nhất thế giới.Cá sấu Caiman lùn Cuvier (Paleosuchus palpebrosus) dài 1,5 mét, được ghi nhận ở miền Bắc và miền trung Nam Mỹ. Là loài cá sấu nhỏ con nhất, chúng chủ yếu ăn cá và ếch nhái.Cá sấu lùn trán phẳng (Paleosuchus trigonatus) dài 1,7 mét, sống trong các khu rừng mưa Nam Mỹ. Sống nửa trên cạn, chúng làm tổ cạnh ụ mối để giữ ấm cho chúng.Cá sấu caiman đen (Melanosuchus niger) dài 5 mét, sinh sống ở lưu vực sông Amazon. Là loài cá sấu lớn thứ nhì châu Mỹ (sau cá sấu Orinoco), chúng săn cả cá răng dao piranha và chuột khổng lồ capybara.Mời quý độc giả xem video: Thanh âm vĩnh cửu của thiên nhiên | VTV3.
Cá sấu mũi hẹp Trung Phi (Mecistops leptorhynchus) dài 2,5 mét, từng được coi là một phân loài của cá sấu mũi hẹp Tây Phi. Chúng được "nâng cấp" thành một loài riêng sau các nghiên cứu được tiến hành năm 2014 và 2018.
Cá sấu còi châu Phi (Osteolaemus tetraspis) dài 2 mét, sống trong rừng nhiệt đới châu Phi. Loài cá sấu nhỏ này kiếm mồi ban đêm, chuyện bắt cá và ếch.
Cá sấu lùn Osborn (Osteolaemus osborni) dài 1,5 mét, là một loài cá sấu đặc hữu của lưu vực sông Congo ở châu Phi. Chúng được mô tả lần đầu vào năm 1919, xác định là loài mới năm 1948, "giáng cấp" thành phân loài của cá sấu còi châu Phi năm 1961 và lại khôi phục tư cách một loài riêng vào năm 2021.
Cá sấu mõm dài Ấn Độ hay cá sấu sông Hằng (Gavialis gangeticus) dài 7 mét, là loài cá sấu bản địa của lục địa Ấn Độ. Dù là một trong những loài cá sấu lớn nhất, chúng chỉ bắt cá bằng bộ hàm giống cái kẹp của mình. Chưa có vụ tấn công con người nào ở loài này được ghi nhận.
Cá sấu Mã Lai (Tomistoma schlegelii) dài 5 mét, sống trong các hệ thống sông ở Indonesia và Malaysia. Không giống như các loài cá sấu khác, cá sấu Mã Lai con không được cha mẹ bảo vệ.
Cá sấu mõm rộng Mỹ (Alligator mississippiensis) dài 5 mét, phân bố ở Bắc Mỹ. Từng rơi vào tình trạng nguy cấp, loài cá sấu này đã phục hồi và trở nên phổ biến nhờ các nỗ lực bảo tồn. Chúng ăn chim, thú nhỏ và rùa.
Cá sấu mõm rộng Trung Quốc hay cá sấu sông Dương Tử (Alligator sinensis) dài 2 mét, được ghi nhận ở thung lũng sông Dương Tử ở Trung Quốc. Loài cá sấu nguy cấp này ngủ trong hang suốt mùa đông lạnh giá.
Cá sấu Caiman đeo kính (Caiman crocodilus) dài 2,5 mét, phân bố rộng ở Trung và Nam Mỹ. Loài này ăn nhiều loại con mồi khác nhau. Có lẽ chúng là loài cá sấu duy nhất trú ngụ ở các sinh cảnh nước nhân tạo.
Cá sấu Caiman mõm rộng (Caiman latirostris) dài 3 mét, có mặt ở hầu khắp vùng trung tâm lục địa Nam Mỹ. Loài cá sấu có cái mõm rộng này làm tổ thành ụ. Chúng săn chim và thú.
Cá sấu Yacare (Caiman yacare) dài 3 mét, sinh sống tại miền trung của Nam Mỹ. Chế độ ăn của chúng gồm cá (nhất là piranha), chim, bò sát nhỏ, và động vật có vú nhỏ. Đây là một trong những loài cá sấu có dân số đông nhất thế giới.
Cá sấu Caiman lùn Cuvier (Paleosuchus palpebrosus) dài 1,5 mét, được ghi nhận ở miền Bắc và miền trung Nam Mỹ. Là loài cá sấu nhỏ con nhất, chúng chủ yếu ăn cá và ếch nhái.
Cá sấu lùn trán phẳng (Paleosuchus trigonatus) dài 1,7 mét, sống trong các khu rừng mưa Nam Mỹ. Sống nửa trên cạn, chúng làm tổ cạnh ụ mối để giữ ấm cho chúng.
Cá sấu caiman đen (Melanosuchus niger) dài 5 mét, sinh sống ở lưu vực sông Amazon. Là loài cá sấu lớn thứ nhì châu Mỹ (sau cá sấu Orinoco), chúng săn cả cá răng dao piranha và chuột khổng lồ capybara.
Mời quý độc giả xem video: Thanh âm vĩnh cửu của thiên nhiên | VTV3.