Dọc theo bờ sông Cái Cui và sông Kinh thuộc xã Xuân Hòa, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng có hàng trăm lò than đang hoạt động. Đây là một trong những làng nghề sản xuất than lớn và lâu đời nhất miền Tây.Các nóc nhà ở xóm than đều ám màu đen đúa do khói bụi bám lâu năm. Nhà nào cũng vây quanh bởi những đống củi nhãn, chôm chôm, đước, bạch đằng... chất cao đến vài mét.Môi trường làm việc độc hại, cực nhọc và thu nhập không cao, nhân công ở các lò than đa số đã luống tuổi. Những người trẻ, sức khỏe tốt thường đi làm công ty thay vì chọn nghề làm than quanh năm đen đúa, bụi bặm.Phụ nữ làm việc ở lò than đa số là lao động gần nhà. Tùy vào thời điểm, mùa vụ sản xuất than mà công việc phải đảo liên tục, có khi là chất than vào lò đốt, có lúc tập trung việc bóc dỡ than, sàng lọc than nguyên, than vụn...Bình quân thu nhập của nữ thợ than dao động từ 200.000 đến 250.000 đồng/ngày. Họ làm việc xuyên suốt, không tính thời gian mà ăn lương theo khối lượng công việc.Bà Võ Thị Phương (59 tuổi) được xem là một trong những nhân công lớn tuổi nhất còn bám trụ nghề hầm than cho biết. Trước đây bà làm vườn nhưng do cây trái thất thường, mất mùa nhiều, cộng thêm tuổi tác cao, khó tìm việc nên đành xin vào lò than làm để kiếm tiền trang trải cuộc sống. Nhà bà có 4 người, con cái đã có gia đình và đi làm ăn xa nhưng không ai khá giả. Tiền công ở lò than đủ để bà xoay xở áo cơm qua ngày và nuôi đứa con út đang học cấp 3.Còn bà Nguyễn Thị Nhẫn (56 tuổi), cả gia đình là người xã khác, vì không có công ăn việc làm nên tìm đến lò than của người em kiếm việc. Bà Nhẫn thường lo việc chụm lửa, bốc dỡ than còn chồng và con trai khuân vác, vận chuyển than xuống ghe hoặc chất lên xe tải. "Trong các công đoạn, tôi sợ nhất là lúc dỡ lò, đem than ra vì ngộp, bụi bặm và nóng dữ lắm. Hồi mới đầu làm không quen suýt bị ngất mấy lần, mọi người phải đỡ tôi ra ngoài lò cho thoáng khí. Về sau làm quen thì không còn ngạt thở nữa", bà Nhẫn kể.Thông thường, củi sau khi chất đầy lò được đốt liên tục trong 25 đến 30 ngày thì tắt lửa để bế than (tức là ủ cho than nguội). Than thành phẩm sau đó mới qua các công đoạn cuối là bốc dỡ, phân loại và giao cho khách.Những đống củi để hầm than được chất cao, xếp ngay ngắn. Nguyên liệu chọn làm than thường là củi nhãn, đước, bạch đằng... trong đó củi nhãn có giá cao nhất, ít được ưa chuộng là củi bạch đằng vì khi cháy hay bắn lửa.Cánh đàn ông chất than lên xe tải, mang hàng đi giao.Ngoài chuyện tay chân chai sần, phồng rộp do bốc than nóng, những người phụ nữ làm ở lò than còn phải đối mặt với các căn bệnh về đường hô hấp. Dù có mang bao nhiêu lớp khẩu trang, bịt mặt kỹ đến mấy, khi về nhà vẫn thấy bụi than bám đen lỗ mũi, khóe mắt.Hiện làng nghề hầm than Xuân Hòa còn hơn 400 hộ làm nghề với trên 900 lò, tập trung nhiều tại 3 ấp Hòa Thành, Hòa Lộc 2 và Hòa An.
Dọc theo bờ sông Cái Cui và sông Kinh thuộc xã Xuân Hòa, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng có hàng trăm lò than đang hoạt động. Đây là một trong những làng nghề sản xuất than lớn và lâu đời nhất miền Tây.
Các nóc nhà ở xóm than đều ám màu đen đúa do khói bụi bám lâu năm. Nhà nào cũng vây quanh bởi những đống củi nhãn, chôm chôm, đước, bạch đằng... chất cao đến vài mét.
Môi trường làm việc độc hại, cực nhọc và thu nhập không cao, nhân công ở các lò than đa số đã luống tuổi. Những người trẻ, sức khỏe tốt thường đi làm công ty thay vì chọn nghề làm than quanh năm đen đúa, bụi bặm.
Phụ nữ làm việc ở lò than đa số là lao động gần nhà. Tùy vào thời điểm, mùa vụ sản xuất than mà công việc phải đảo liên tục, có khi là chất than vào lò đốt, có lúc tập trung việc bóc dỡ than, sàng lọc than nguyên, than vụn...
Bình quân thu nhập của nữ thợ than dao động từ 200.000 đến 250.000 đồng/ngày. Họ làm việc xuyên suốt, không tính thời gian mà ăn lương theo khối lượng công việc.
Bà Võ Thị Phương (59 tuổi) được xem là một trong những nhân công lớn tuổi nhất còn bám trụ nghề hầm than cho biết. Trước đây bà làm vườn nhưng do cây trái thất thường, mất mùa nhiều, cộng thêm tuổi tác cao, khó tìm việc nên đành xin vào lò than làm để kiếm tiền trang trải cuộc sống. Nhà bà có 4 người, con cái đã có gia đình và đi làm ăn xa nhưng không ai khá giả. Tiền công ở lò than đủ để bà xoay xở áo cơm qua ngày và nuôi đứa con út đang học cấp 3.
Còn bà Nguyễn Thị Nhẫn (56 tuổi), cả gia đình là người xã khác, vì không có công ăn việc làm nên tìm đến lò than của người em kiếm việc. Bà Nhẫn thường lo việc chụm lửa, bốc dỡ than còn chồng và con trai khuân vác, vận chuyển than xuống ghe hoặc chất lên xe tải. "Trong các công đoạn, tôi sợ nhất là lúc dỡ lò, đem than ra vì ngộp, bụi bặm và nóng dữ lắm. Hồi mới đầu làm không quen suýt bị ngất mấy lần, mọi người phải đỡ tôi ra ngoài lò cho thoáng khí. Về sau làm quen thì không còn ngạt thở nữa", bà Nhẫn kể.
Thông thường, củi sau khi chất đầy lò được đốt liên tục trong 25 đến 30 ngày thì tắt lửa để bế than (tức là ủ cho than nguội). Than thành phẩm sau đó mới qua các công đoạn cuối là bốc dỡ, phân loại và giao cho khách.
Những đống củi để hầm than được chất cao, xếp ngay ngắn. Nguyên liệu chọn làm than thường là củi nhãn, đước, bạch đằng... trong đó củi nhãn có giá cao nhất, ít được ưa chuộng là củi bạch đằng vì khi cháy hay bắn lửa.
Cánh đàn ông chất than lên xe tải, mang hàng đi giao.
Ngoài chuyện tay chân chai sần, phồng rộp do bốc than nóng, những người phụ nữ làm ở lò than còn phải đối mặt với các căn bệnh về đường hô hấp. Dù có mang bao nhiêu lớp khẩu trang, bịt mặt kỹ đến mấy, khi về nhà vẫn thấy bụi than bám đen lỗ mũi, khóe mắt.
Hiện làng nghề hầm than Xuân Hòa còn hơn 400 hộ làm nghề với trên 900 lò, tập trung nhiều tại 3 ấp Hòa Thành, Hòa Lộc 2 và Hòa An.