Gà rừng (Gallus gallus) dài 41-78 cm, phân bố ở Nam và Đông Nam Á. Con trống ở loài gà này có mào và yếm thịt đặc trưng, giao phối với nhiều con mái. Chúng là tổ tiên của các giống gà nhà trên thế giới.Gà lôi Kalij (Lophura leucomelanos) dài 55-75 cm, sống trong các khu rừng từ Himalaya đến Myanmar. Chúng được coi là biểu tượng của vùng lãnh thổ Jammu và Kashmir, Ấn Độ.Gà lôi hồng tía (Lophura diardi) dài 60-80 cm, phân bố ở Đông Nam Á. Cũng như các loài gà lôi khác thuộc chi Lophura, cả hai giới của loài này có da mặt đỏ (ở các chi khác, chỉ con trống có da mặt đỏ).Trĩ đỏ (Phasianus colchicus) dài 53-89 cm, phân bố rộng ở châu Á. Loài này đã được du nhập vào Âu - Mỹ và trở thành vật nuôi phổ biến trong các trang trại. Chúng là biểu tượng của bang Nam Dakota, Mỹ.Trĩ xanh (Chrysolophus amherstiae) dài 60-120 cm, có nguồn gốc từ Trung Quốc và Myanmar. Tương tự nhiều loài trĩ khác, chỉ con trống của loài này mới có bộ lông đẹp mắt, và chỉ con mái chăm sóc con.Trĩ vàng (Chrysolophus pictus) dài 60-105 cm, có nguồn gốc từ vùng núi phía Tây Trung Quốc. Do màu sắc cực kỳ bắt mắt, chúng đã trở thành vật nuôi quen thuộc ở các khu vườn cảnh trên khắp thế giới.Công Ấn Độ (Pavo cristatus) dài 0,8-2,2 mét, phân bố chủ yếu ở Ấn Độ và Sri Lanka. Các con trống của loài này ve vãn con mái bằng cách dựng đám lông dài ở đuôi lên.Gà tiền Palawan (Polyplectron napoleonis) dài 40-50 cm, là loài đặc hữu của đảo Palawan, Philippines. Loài này trông hơi giống con công, với cái đuôi ngắn hơn.Gà tiền Mã Lai (Polyplectron malacense) dài 40-50 cm, là loài đặc hữu của các khu rừng đất thấp phía Nam bán đảo Mã Lai. Bộ lông con trống của loài này có các đốm "đồng tiền" trên cả cánh và đuôi.Trĩ Himalaya (Lophophorus impejanus), sống ở rừng và khu vực nhiều cây bụi ở độ cao 2.100–4.500 mét của dãy Himalaya. Loài chim có bộ lông nhiều màu óng ánh này "bang điểu" của bang Uttarakhand, Ấn Độ.Gà Tây hoang (Meleagris gallopavo) dài 1,1-1,2 mét, là loài gà bản địa Bắc Mỹ. Loài chim dạng gà có yếm cổ này là tổ tiên của gà Tây nhà. Các giống gà Tây nhà béo trục béo tròn và không thể bay như tổ tiên hoang dã.Gà lôi tía sừng xanh (Tragopan satyra) dài 60-70 cm, sống chủ yếu trên cây ở vùng Himalaya. Con trống của loài này xòe yếm và giương "sừng" - hai túm lông màu xanh sau mắt - để phô diễn trước con mái.Gà tre Trung Hoa (Bambusicola thoracicus) dài 31 cm, là loài chim bản địa Trung Quốc. Con trống của loài này phát ra những tiếng kêu lớn, đa âm tiết suốt ngày và suốt năm như một cách khẳng định lãnh thổ.Gà thông rừng (Tetrao urogallus) dài 60-87 cm, phân bố ở các khu rừng lá kim châu Âu và Nga. Các con trống của chúng xòe đuôi và cất tiếng kêu đặc trưng khi biểu diễn trước con mái. Đây là thành viên lớn nhất trong các loài gà thông.Mời quý độc giả xem video: Bảo tồn loài voọc Cát Bà trước nguy cơ tuyệt chủng | VTV4.
Gà rừng (Gallus gallus) dài 41-78 cm, phân bố ở Nam và Đông Nam Á. Con trống ở loài gà này có mào và yếm thịt đặc trưng, giao phối với nhiều con mái. Chúng là tổ tiên của các giống gà nhà trên thế giới.
Gà lôi Kalij (Lophura leucomelanos) dài 55-75 cm, sống trong các khu rừng từ Himalaya đến Myanmar. Chúng được coi là biểu tượng của vùng lãnh thổ Jammu và Kashmir, Ấn Độ.
Gà lôi hồng tía (Lophura diardi) dài 60-80 cm, phân bố ở Đông Nam Á. Cũng như các loài gà lôi khác thuộc chi Lophura, cả hai giới của loài này có da mặt đỏ (ở các chi khác, chỉ con trống có da mặt đỏ).
Trĩ đỏ (Phasianus colchicus) dài 53-89 cm, phân bố rộng ở châu Á. Loài này đã được du nhập vào Âu - Mỹ và trở thành vật nuôi phổ biến trong các trang trại. Chúng là biểu tượng của bang Nam Dakota, Mỹ.
Trĩ xanh (Chrysolophus amherstiae) dài 60-120 cm, có nguồn gốc từ Trung Quốc và Myanmar. Tương tự nhiều loài trĩ khác, chỉ con trống của loài này mới có bộ lông đẹp mắt, và chỉ con mái chăm sóc con.
Trĩ vàng (Chrysolophus pictus) dài 60-105 cm, có nguồn gốc từ vùng núi phía Tây Trung Quốc. Do màu sắc cực kỳ bắt mắt, chúng đã trở thành vật nuôi quen thuộc ở các khu vườn cảnh trên khắp thế giới.
Công Ấn Độ (Pavo cristatus) dài 0,8-2,2 mét, phân bố chủ yếu ở Ấn Độ và Sri Lanka. Các con trống của loài này ve vãn con mái bằng cách dựng đám lông dài ở đuôi lên.
Gà tiền Palawan (Polyplectron napoleonis) dài 40-50 cm, là loài đặc hữu của đảo Palawan, Philippines. Loài này trông hơi giống con công, với cái đuôi ngắn hơn.
Gà tiền Mã Lai (Polyplectron malacense) dài 40-50 cm, là loài đặc hữu của các khu rừng đất thấp phía Nam bán đảo Mã Lai. Bộ lông con trống của loài này có các đốm "đồng tiền" trên cả cánh và đuôi.
Trĩ Himalaya (Lophophorus impejanus), sống ở rừng và khu vực nhiều cây bụi ở độ cao 2.100–4.500 mét của dãy Himalaya. Loài chim có bộ lông nhiều màu óng ánh này "bang điểu" của bang Uttarakhand, Ấn Độ.
Gà Tây hoang (Meleagris gallopavo) dài 1,1-1,2 mét, là loài gà bản địa Bắc Mỹ. Loài chim dạng gà có yếm cổ này là tổ tiên của gà Tây nhà. Các giống gà Tây nhà béo trục béo tròn và không thể bay như tổ tiên hoang dã.
Gà lôi tía sừng xanh (Tragopan satyra) dài 60-70 cm, sống chủ yếu trên cây ở vùng Himalaya. Con trống của loài này xòe yếm và giương "sừng" - hai túm lông màu xanh sau mắt - để phô diễn trước con mái.
Gà tre Trung Hoa (Bambusicola thoracicus) dài 31 cm, là loài chim bản địa Trung Quốc. Con trống của loài này phát ra những tiếng kêu lớn, đa âm tiết suốt ngày và suốt năm như một cách khẳng định lãnh thổ.
Gà thông rừng (Tetrao urogallus) dài 60-87 cm, phân bố ở các khu rừng lá kim châu Âu và Nga. Các con trống của chúng xòe đuôi và cất tiếng kêu đặc trưng khi biểu diễn trước con mái. Đây là thành viên lớn nhất trong các loài gà thông.
Mời quý độc giả xem video: Bảo tồn loài voọc Cát Bà trước nguy cơ tuyệt chủng | VTV4.