Trong chiến tranh Lạnh, Hải quân Liên Xô đã lên kế hoạch sử dụng máy bay ném bom, máy bay chiến đấu, tàu ngầm và tên lửa chống hạm của họ, để đánh chìm tàu sân bay của Mỹ. Mặc dù sẽ rất khó khăn, nhưng Liên Xô đã lên kế hoạch "chơi tất tay" với hạm đội của Mỹ.Trong trường hợp xảy ra Thế chiến ba, Liên Xô đã lên kế hoạch truy lùng hạm đội tàu sân bay của Hải quân Mỹ ở các vùng biển gần Liên Xô. Các tàu sân bay của Mỹ được đánh giá là hết sức nguy hiểm, khi có thể hỗ trợ các chiến dịch trên bộ, cho đến phát động các cuộc tấn công hạt nhân.Để đối phó với tàu sân bay Mỹ, hải quân và không quân hải quân Liên Xô, đã chế tạo và trang bị các tàu tên lửa tuần dương, tàu ngầm, máy bay ném bom trang bị tên lửa chống hạm rất mạnh, để tiêu diệt các tàu sân bay của Mỹ và đảm bảo chiến thắng ở Tây Âu.Cũng trong Chiến tranh Lạnh, Hải quân Mỹ đã duy trì một hạm đội tàu sân bay lớn và mạnh mẽ. Năm 1984, Hải quân Mỹ có 13 hàng không mẫu hạm chạy bằng năng lượng hạt nhân; một tàu sân bay được trang bị tới 85 máy bay chiến đấu các loại.Nhưng máy bay chiến đấu trên hạm bao gồm máy bay đánh chặn hạng nặng F-14 Tomcat, máy bay chiến đấu đa năng F/A-18 Hornet, máy bay ném bom A-6 Intruder, máy bay tấn công A-7 Corsair, và nhiều loại máy bay hỗ trợ và chống ngầm.Một trong những hướng tiến công mà Liên Xô lo sợ nhất, là hướng Biển Na Uy, nơi tập trung các căn cứ không quân và hải quân của Liên Xô. Từ đó, các tàu sân bay Mỹ có thể thực hiện các cuộc không kích nhằm vào các mục tiêu quân sự trên khắp Tây Bắc Liên Xô, ngăn cản Liên Xô khống chế Bắc Đại Tây Dương và xa hơn nữa.Ngoài ra, Hải quân Mỹ có thể tấn công các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo của Liên Xô, đang neo đậu trong cái gọi là "pháo đài" ở Biển Barents. Các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo của Liên Xô, tập trung gần bờ biển nước này, sẽ bị săn lùng và tiêu diệt.Nhưng có lẽ mối đe dọa lớn nhất theo quan điểm của Matxcơva là vũ khí hạt nhân, thường xuyên được cất giữ trên các tàu sân bay của Mỹ. Viễn cảnh một hoặc nhiều tàu sân bay của Mỹ, hoạt động liên tục ngoài khơi Liên Xô, mỗi chiếc có tới 10 máy bay ném bom hạt nhân trên boong, là mối đe dọa nghiêm trọng đối với Liên Xô.Vì những lý do trên, tiêu diệt hạm tàu sân bay Mỹ là nhiệm vụ đặt lên hàng đầu của cả Không quân và Hải quân Liên Xô. Liên Xô đã lên kế hoạch tiêu diệt các tàu sân bay của Mỹ một cách nhanh chóng và dứt khoát, loại bỏ mối đe dọa với Liên Xô.Chiến thuật cơ bản của Liên Xô là kết hợp giữa tàu chiến, tàu ngầm, máy bay ném bom tầm xa và có thể cả vũ khí hạt nhân, nhằm tiêu diệt hạm đội tàu sân bay của Mỹ. Đồng thời việc phá hủy các dàn chống tàu ngầm, sẽ có lợi rất nhiều cho chiến dịch cô lập bằng tàu ngầm của Hải quân Liên Xô, nhằm vào Tây Âu.Để thực hiện chiến thuật này, Hải quân Liên Xô trang bị một lực lượng rất mạnh gồm các tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường. Đầu tiên là ba tàu tuần dương lớp Slava dài 186,4 mét, lượng choán nước 12.000 tấn và có khả năng đạt tốc độ lên đến 32 hải lý/giờ. Hoàn toàn đủ tốc độ bám theo các biên đội tàu sân bay.Một chiếc tuần dương hạm lớp Slava trang bị 16 tên lửa chống hạm P-500 Bazalt, có kích thước bằng một chiếc máy bay nhỏ. P-500 bay với tốc độ Mach 2,5 và mang theo đầu đạn nổ nặng 1.000 kg hoặc đầu đạn hạt nhân 350 kiloton.Tên lửa P-500 có tầm bắn hiệu quả tối đa là 340 hải lý, với sai số tròn (CEP) từ 300 đến 700 mét. Mức độ chính xác đó, khiến việc thực sự bắn trúng một con tàu dài 300m bằng đầu đạn thông thường, là một điều không tưởng; nên P-500 đã được trang bị đầu đạn hạt nhân ngay từ đầu.Thế hệ tàu chiến tiếp theo, để bám theo các tàu sân bay Mỹ là các tàu chiến-tuần dương lớp Kirov. Đây là lớp tàu chiến có lượng giãn nước, chỉ kém tàu sân bay; tàu lớp Kirov dài 260m, chạy bằng năng lượng hạt nhân và lượng choán nước đầy tải 28.000 tấn.Lớp tàu Kirovs mang 20 tên lửa P-700 Granit, tương tự như tên lửa Bazalt, tên lửa Granit có tầm bắn xa hơn một chút là 388 hải lý và mang đầu đạn nổ 750 kg hoặc một đầu đạn hạt nhân 300kt. Không giống như lớp Slava, tàu Kirovs có hệ thống phòng không rất mạnh, có khả năng bảo vệ tàu, trước sự tiến công của tiêm kích hạm.Sự chuẩn bị của Liên Xô cho cuộc chiến chống tàu sân bay của Mỹ, kéo sang cả lĩnh vực tàu ngầm. Hải quân Liên Xô đã chế tạo 14 tàu ngầm tên lửa dẫn đường lớp Oscar, có lượng choán nước hơn 14.000 tấn, chạy bằng năng lượng hạt nhân.Mỗi tàu ngầm Oscar mang 24 tên lửa chống hạm P-700. Hải quân Liên Xô có đủ số lượng tàu ngầm Oscar, để được biên chế cho cả Hạm đội Phương Bắc và Thái Bình Dương, có thể tiêu diệt các tàu sân bay Mỹ ở cả Đại Tây Dương và Thái Bình Dương.Cuối cùng là lực lượng không quân Hải quân Liên Xô, được trang bị một lực lượng lớn máy bay ném bom và máy bay tuần tra hàng hải, nhằm tìm kiếm và sau đó tiêu diệt các lực lượng tàu sân bay Mỹ.Không quân Hải quân Liên Xô được trang bị 120 máy bay ném bom siêu thanh Tu-22M, 240 máy bay ném bom Tu-16 với tên lửa AS-2, AS-5 và AS-6; 35 máy bay ném bom Tu-22 Blinder với bom thường, đủ để phát động các cuộc tấn công hàng loạt nhằm vào các nhóm tác chiến tàu sân bay của Mỹ.Cả ba lực lượng của Hải quân Liên Xô là tàu nổi, tàu ngầm và không quân hải quân, không ngừng săn lùng các nhóm tàu sân bay của Mỹ, sẵn sàng tiêu diệt chúng bất cứ khi nào có thể. Một cuộc tấn công phủ đầu bất ngờ, bằng tên lửa chống hạm mang đầu đạn hạt nhân, có thể gây ra thiệt hại khủng khiếp cho hạm đội tàu sân bay của Mỹ.Nếu không sử dụng vũ khí hạt nhân, các lực lượng Liên Xô có thể tổ chức một số cuộc tấn công độc lập nhỏ hơn, từ mọi hướng, làm suy yếu các phòng thủ của lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay và làm cạn kiệt nguồn dự trữ đạn dược của biên đội tàu sân bay Mỹ, trước khi tung ra một cuộc tấn công tổng lực cuối cùng. Nguồn ảnh: Pinterest. Tàu tuần dương Slava - con quái thú được mệnh danh là "sát thủ tàu sân bay" của Liên Xô trong quá khứ. Nguồn: Hải quân Liên Xô.
Trong chiến tranh Lạnh, Hải quân Liên Xô đã lên kế hoạch sử dụng máy bay ném bom, máy bay chiến đấu, tàu ngầm và tên lửa chống hạm của họ, để đánh chìm tàu sân bay của Mỹ. Mặc dù sẽ rất khó khăn, nhưng Liên Xô đã lên kế hoạch "chơi tất tay" với hạm đội của Mỹ.
Trong trường hợp xảy ra Thế chiến ba, Liên Xô đã lên kế hoạch truy lùng hạm đội tàu sân bay của Hải quân Mỹ ở các vùng biển gần Liên Xô. Các tàu sân bay của Mỹ được đánh giá là hết sức nguy hiểm, khi có thể hỗ trợ các chiến dịch trên bộ, cho đến phát động các cuộc tấn công hạt nhân.
Để đối phó với tàu sân bay Mỹ, hải quân và không quân hải quân Liên Xô, đã chế tạo và trang bị các tàu tên lửa tuần dương, tàu ngầm, máy bay ném bom trang bị tên lửa chống hạm rất mạnh, để tiêu diệt các tàu sân bay của Mỹ và đảm bảo chiến thắng ở Tây Âu.
Cũng trong Chiến tranh Lạnh, Hải quân Mỹ đã duy trì một hạm đội tàu sân bay lớn và mạnh mẽ. Năm 1984, Hải quân Mỹ có 13 hàng không mẫu hạm chạy bằng năng lượng hạt nhân; một tàu sân bay được trang bị tới 85 máy bay chiến đấu các loại.
Nhưng máy bay chiến đấu trên hạm bao gồm máy bay đánh chặn hạng nặng F-14 Tomcat, máy bay chiến đấu đa năng F/A-18 Hornet, máy bay ném bom A-6 Intruder, máy bay tấn công A-7 Corsair, và nhiều loại máy bay hỗ trợ và chống ngầm.
Một trong những hướng tiến công mà Liên Xô lo sợ nhất, là hướng Biển Na Uy, nơi tập trung các căn cứ không quân và hải quân của Liên Xô. Từ đó, các tàu sân bay Mỹ có thể thực hiện các cuộc không kích nhằm vào các mục tiêu quân sự trên khắp Tây Bắc Liên Xô, ngăn cản Liên Xô khống chế Bắc Đại Tây Dương và xa hơn nữa.
Ngoài ra, Hải quân Mỹ có thể tấn công các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo của Liên Xô, đang neo đậu trong cái gọi là "pháo đài" ở Biển Barents. Các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo của Liên Xô, tập trung gần bờ biển nước này, sẽ bị săn lùng và tiêu diệt.
Nhưng có lẽ mối đe dọa lớn nhất theo quan điểm của Matxcơva là vũ khí hạt nhân, thường xuyên được cất giữ trên các tàu sân bay của Mỹ. Viễn cảnh một hoặc nhiều tàu sân bay của Mỹ, hoạt động liên tục ngoài khơi Liên Xô, mỗi chiếc có tới 10 máy bay ném bom hạt nhân trên boong, là mối đe dọa nghiêm trọng đối với Liên Xô.
Vì những lý do trên, tiêu diệt hạm tàu sân bay Mỹ là nhiệm vụ đặt lên hàng đầu của cả Không quân và Hải quân Liên Xô. Liên Xô đã lên kế hoạch tiêu diệt các tàu sân bay của Mỹ một cách nhanh chóng và dứt khoát, loại bỏ mối đe dọa với Liên Xô.
Chiến thuật cơ bản của Liên Xô là kết hợp giữa tàu chiến, tàu ngầm, máy bay ném bom tầm xa và có thể cả vũ khí hạt nhân, nhằm tiêu diệt hạm đội tàu sân bay của Mỹ. Đồng thời việc phá hủy các dàn chống tàu ngầm, sẽ có lợi rất nhiều cho chiến dịch cô lập bằng tàu ngầm của Hải quân Liên Xô, nhằm vào Tây Âu.
Để thực hiện chiến thuật này, Hải quân Liên Xô trang bị một lực lượng rất mạnh gồm các tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường. Đầu tiên là ba tàu tuần dương lớp Slava dài 186,4 mét, lượng choán nước 12.000 tấn và có khả năng đạt tốc độ lên đến 32 hải lý/giờ. Hoàn toàn đủ tốc độ bám theo các biên đội tàu sân bay.
Một chiếc tuần dương hạm lớp Slava trang bị 16 tên lửa chống hạm P-500 Bazalt, có kích thước bằng một chiếc máy bay nhỏ. P-500 bay với tốc độ Mach 2,5 và mang theo đầu đạn nổ nặng 1.000 kg hoặc đầu đạn hạt nhân 350 kiloton.
Tên lửa P-500 có tầm bắn hiệu quả tối đa là 340 hải lý, với sai số tròn (CEP) từ 300 đến 700 mét. Mức độ chính xác đó, khiến việc thực sự bắn trúng một con tàu dài 300m bằng đầu đạn thông thường, là một điều không tưởng; nên P-500 đã được trang bị đầu đạn hạt nhân ngay từ đầu.
Thế hệ tàu chiến tiếp theo, để bám theo các tàu sân bay Mỹ là các tàu chiến-tuần dương lớp Kirov. Đây là lớp tàu chiến có lượng giãn nước, chỉ kém tàu sân bay; tàu lớp Kirov dài 260m, chạy bằng năng lượng hạt nhân và lượng choán nước đầy tải 28.000 tấn.
Lớp tàu Kirovs mang 20 tên lửa P-700 Granit, tương tự như tên lửa Bazalt, tên lửa Granit có tầm bắn xa hơn một chút là 388 hải lý và mang đầu đạn nổ 750 kg hoặc một đầu đạn hạt nhân 300kt. Không giống như lớp Slava, tàu Kirovs có hệ thống phòng không rất mạnh, có khả năng bảo vệ tàu, trước sự tiến công của tiêm kích hạm.
Sự chuẩn bị của Liên Xô cho cuộc chiến chống tàu sân bay của Mỹ, kéo sang cả lĩnh vực tàu ngầm. Hải quân Liên Xô đã chế tạo 14 tàu ngầm tên lửa dẫn đường lớp Oscar, có lượng choán nước hơn 14.000 tấn, chạy bằng năng lượng hạt nhân.
Mỗi tàu ngầm Oscar mang 24 tên lửa chống hạm P-700. Hải quân Liên Xô có đủ số lượng tàu ngầm Oscar, để được biên chế cho cả Hạm đội Phương Bắc và Thái Bình Dương, có thể tiêu diệt các tàu sân bay Mỹ ở cả Đại Tây Dương và Thái Bình Dương.
Cuối cùng là lực lượng không quân Hải quân Liên Xô, được trang bị một lực lượng lớn máy bay ném bom và máy bay tuần tra hàng hải, nhằm tìm kiếm và sau đó tiêu diệt các lực lượng tàu sân bay Mỹ.
Không quân Hải quân Liên Xô được trang bị 120 máy bay ném bom siêu thanh Tu-22M, 240 máy bay ném bom Tu-16 với tên lửa AS-2, AS-5 và AS-6; 35 máy bay ném bom Tu-22 Blinder với bom thường, đủ để phát động các cuộc tấn công hàng loạt nhằm vào các nhóm tác chiến tàu sân bay của Mỹ.
Cả ba lực lượng của Hải quân Liên Xô là tàu nổi, tàu ngầm và không quân hải quân, không ngừng săn lùng các nhóm tàu sân bay của Mỹ, sẵn sàng tiêu diệt chúng bất cứ khi nào có thể. Một cuộc tấn công phủ đầu bất ngờ, bằng tên lửa chống hạm mang đầu đạn hạt nhân, có thể gây ra thiệt hại khủng khiếp cho hạm đội tàu sân bay của Mỹ.
Nếu không sử dụng vũ khí hạt nhân, các lực lượng Liên Xô có thể tổ chức một số cuộc tấn công độc lập nhỏ hơn, từ mọi hướng, làm suy yếu các phòng thủ của lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay và làm cạn kiệt nguồn dự trữ đạn dược của biên đội tàu sân bay Mỹ, trước khi tung ra một cuộc tấn công tổng lực cuối cùng. Nguồn ảnh: Pinterest.
Tàu tuần dương Slava - con quái thú được mệnh danh là "sát thủ tàu sân bay" của Liên Xô trong quá khứ. Nguồn: Hải quân Liên Xô.