Corynebacterium diphtheriae là vi khuẩn gây ra bệnh bạch hầu. Vi khuẩn có thể xâm nhập vào hầu họng ở những cá thể nhạy cảm. Tại đây tiết ra độc tố có khả năng ức chế quá trình tổng hợp của tế bào do đó làm chết tế bào và hình thành các màng giả tại chỗ.Ở giai đoạn đầu, bệnh bạch hầu thường khó phân biệt với các bệnh lý viêm mũi họng cấp khác trên lâm sàng. Bệnh thường sẽ phát hiện được một màng trắng ở vách ngăn mũi nếu thăm khám cẩn thận.Bạch hầu họng là thể bệnh thường gặp nhất của bạch hầu. Khi khởi phát viêm họng thường âm ỉ. Bệnh có thể biểu hiện sớm bằng các dấu hiệu như mệt mỏi toàn thân, đau cổ họng, chán ăn, sốt nhẹ. Sau 2 đến 3 ngày, một lớp màng màu trắng xanh xuất hiện và lan rộng dần.Màng giả có thể chỉ khu trú ở khu vực A-mi-đan hoặc có thể lan rộng bao phủ cả màn hầu. Thường khi bệnh nhân đến với thầy thuốc thì lớp màng giả này đã chuyển sang màu xanh xám hoặc màu đen nếu có chảy máu.Bệnh nhân mắc bệnh nặng có thể biểu hiện phù nề vùng dưới hàm và sưng các hạch bạch huyết vùng cổ tạo nên một dấu hiệu lâm sàng rất đặc trưng gọi là dấu hiệu bạnh cổ bò.Bạch hầu thanh quản có thể do bạch hầu họng lan xuống nhưng cũng có thể do bệnh tại chỗ. Đây là thể bệnh tiến triển nhanh và cực kỳ nguy hiểm. Nguy cơ gây tắt nghẽn đường thở rất nhanh đưa đến hôn mê và tử vong.Bạch hầu da thường gặp ở những vùng nhiệt đới có thể do nơi đây tỉ lệ bệnh lưu hành cao hơn và nhiều người có miễn dịch tự nhiên với bệnh.Đây là một thể bệnh nhẹ và chúng gây bệnh thường không sinh độc tố. Biểu hiện có thể dưới hình thức bong vảy hoặc một vết mạn tính có bờ rõ.Bạch hầu kết mạc mắt: Xung huyết kết mạc phù nề mi mắt, chảy dịch lẫn máu mủ từ mắt màng giả ở kết mạc mắt dễ bong, chảy máu sau khi bong.Bạch hầu khí quản.
Corynebacterium diphtheriae là vi khuẩn gây ra bệnh bạch hầu. Vi khuẩn có thể xâm nhập vào hầu họng ở những cá thể nhạy cảm. Tại đây tiết ra độc tố có khả năng ức chế quá trình tổng hợp của tế bào do đó làm chết tế bào và hình thành các màng giả tại chỗ.
Ở giai đoạn đầu, bệnh bạch hầu thường khó phân biệt với các bệnh lý viêm mũi họng cấp khác trên lâm sàng. Bệnh thường sẽ phát hiện được một màng trắng ở vách ngăn mũi nếu thăm khám cẩn thận.
Bạch hầu họng là thể bệnh thường gặp nhất của bạch hầu. Khi khởi phát viêm họng thường âm ỉ. Bệnh có thể biểu hiện sớm bằng các dấu hiệu như mệt mỏi toàn thân, đau cổ họng, chán ăn, sốt nhẹ. Sau 2 đến 3 ngày, một lớp màng màu trắng xanh xuất hiện và lan rộng dần.
Màng giả có thể chỉ khu trú ở khu vực A-mi-đan hoặc có thể lan rộng bao phủ cả màn hầu. Thường khi bệnh nhân đến với thầy thuốc thì lớp màng giả này đã chuyển sang màu xanh xám hoặc màu đen nếu có chảy máu.
Bệnh nhân mắc bệnh nặng có thể biểu hiện phù nề vùng dưới hàm và sưng các hạch bạch huyết vùng cổ tạo nên một dấu hiệu lâm sàng rất đặc trưng gọi là dấu hiệu bạnh cổ bò.
Bạch hầu thanh quản có thể do bạch hầu họng lan xuống nhưng cũng có thể do bệnh tại chỗ. Đây là thể bệnh tiến triển nhanh và cực kỳ nguy hiểm. Nguy cơ gây tắt nghẽn đường thở rất nhanh đưa đến hôn mê và tử vong.
Bạch hầu da thường gặp ở những vùng nhiệt đới có thể do nơi đây tỉ lệ bệnh lưu hành cao hơn và nhiều người có miễn dịch tự nhiên với bệnh.
Đây là một thể bệnh nhẹ và chúng gây bệnh thường không sinh độc tố. Biểu hiện có thể dưới hình thức bong vảy hoặc một vết mạn tính có bờ rõ.
Bạch hầu kết mạc mắt: Xung huyết kết mạc phù nề mi mắt, chảy dịch lẫn máu mủ từ mắt màng giả ở kết mạc mắt dễ bong, chảy máu sau khi bong.
Bạch hầu khí quản.