IS-7 được xem là mẫu xe tăng hạng nặng tốt nhất của Liên Xô và là tốt nhất trên thế giới. Nó có tốc độ cao nhất trong số các xe tăng hạng nặng cùng loại và giáp bảo vệ tốt hơn hẳn các xe tăng cùng dòng của Liên Xô. Và theo sự tổng hợp các tính năng chiến đấu, không xe tăng nào trên thế giới so sánh được với nó.Chương trình phát triển xe tăng hạng nặng IS-7 (Object 260) được khởi động từ tháng 9/1945 tức là ngay khi cuộc Chiến tranh Thế giới thứ 2 mới kết thúc. Mục tiêu thiết kế mà các nhà phát triển đặt ra khi đó là tìm kiếm một cỗ xe tăng có giáp bảo vệ mạnh mẽ đủ sức phá vỡ tuyến phòng thủ của đối phương.Chính vì vậy, xe tăng IS-7 được bọc giáp cực dày với mặt trước lên đến 150mm vát nghiêng 65 độ, hai bên hông bọc giáp dày 150mm vát nghiêng 45 độ, đuôi xe giày đến 100mm. Khủng nhất phải ở tháp pháo với mặt trước dày 240mm, hai bên hông tháp dày 185mm và đuôi tháp đến 94mm.Thân xe tăng được lắp từ các tấm thép có góc nghiêng lớn, đầu xe hình tam diện như IS-3, nhưng có độ dốc lớn hơn. Góc nghiêng lớn giúp tăng cường đáng kể khả năng chống đạn xuyên giáp AP.Về mặt hỏa lực, phiên bản xe tăng hạng nặng IS-7 Model 1948 trang bị đại pháo 130mm S-70 cùng 2 khẩu đại liên 14,5mm (một bố trí ngay trên gốc pháo chính và một lắp nóc tháp pháo) và 6 khẩu trung liên 7,62mm. Đáng lưu ý, hầu hết các súng máy được điều khiển tự động.Nhưng đáng nể nhất phải nói tới khẩu pháo chính 130mm S-70 với chiều dài nòng 7,02m được cải tiến trên cơ sở hệ thống pháo phòng thủ bờ biển. Khẩu pháo này thừa sức xuyên thủng bất cứ loại xe tăng hạng trung, hạng nặng nào của Mỹ, Anh thời bấy giờ. Thậm chí nó thừa sức bắn tan nát bất cứ pháo đài bê tông cốt thép kiên cố.Pháo chính S-70 130mm cũng được trang bị công nghệ mới mẻ thời bấy giờ - hệ thống nạp đạn tự động cho tốc độ bắn đến 8 phát/phút (trong ảnh là bộ nạp đạn tự động của IS-7).Một bộ giáp khủng, hỏa lực siêu nặng, thế cho nên không lạ khi vua tăng hạng nặng IS-7 có trọng lượng lên tới 68 tấn (con số "khủng" thời bấy giờ), dài 7,38m (dài tổng thể 10m gồm cả nòng pháo chính), rộng 3,4m, cao 2,48m. Kíp lái vận hành xe cần tới 5 người.Để di chuyển con quái vật này, nhà sản xuất đã buộc phải cải tiến động cơ hàng hải M-50T 12 xy lanh 1.050 mã lực cho tốc độ tối đa đến 60km/h trên đường bằng phẳng, tốc độ trên đường ghồ ghề là 32km/h, dự trữ hành trình 300km, lội sâu 1,5m, khả năng leo dốc nghiêng 30 độ. Với tốc độ này, IS-7 được xem là xe tăng hạng nặng nhanh nhất Liên Xô khi mà các “anh em” IS/IS-3 chỉ đạt 37km/h là tối đa.
IS-7 được xem là mẫu xe tăng hạng nặng tốt nhất của Liên Xô và là tốt nhất trên thế giới. Nó có tốc độ cao nhất trong số các xe tăng hạng nặng cùng loại và giáp bảo vệ tốt hơn hẳn các xe tăng cùng dòng của Liên Xô. Và theo sự tổng hợp các tính năng chiến đấu, không xe tăng nào trên thế giới so sánh được với nó.
Chương trình phát triển xe tăng hạng nặng IS-7 (Object 260) được khởi động từ tháng 9/1945 tức là ngay khi cuộc Chiến tranh Thế giới thứ 2 mới kết thúc. Mục tiêu thiết kế mà các nhà phát triển đặt ra khi đó là tìm kiếm một cỗ xe tăng có giáp bảo vệ mạnh mẽ đủ sức phá vỡ tuyến phòng thủ của đối phương.
Chính vì vậy, xe tăng IS-7 được bọc giáp cực dày với mặt trước lên đến 150mm vát nghiêng 65 độ, hai bên hông bọc giáp dày 150mm vát nghiêng 45 độ, đuôi xe giày đến 100mm. Khủng nhất phải ở tháp pháo với mặt trước dày 240mm, hai bên hông tháp dày 185mm và đuôi tháp đến 94mm.
Thân xe tăng được lắp từ các tấm thép có góc nghiêng lớn, đầu xe hình tam diện như IS-3, nhưng có độ dốc lớn hơn. Góc nghiêng lớn giúp tăng cường đáng kể khả năng chống đạn xuyên giáp AP.
Về mặt hỏa lực, phiên bản xe tăng hạng nặng IS-7 Model 1948 trang bị đại pháo 130mm S-70 cùng 2 khẩu đại liên 14,5mm (một bố trí ngay trên gốc pháo chính và một lắp nóc tháp pháo) và 6 khẩu trung liên 7,62mm. Đáng lưu ý, hầu hết các súng máy được điều khiển tự động.
Nhưng đáng nể nhất phải nói tới khẩu pháo chính 130mm S-70 với chiều dài nòng 7,02m được cải tiến trên cơ sở hệ thống pháo phòng thủ bờ biển. Khẩu pháo này thừa sức xuyên thủng bất cứ loại xe tăng hạng trung, hạng nặng nào của Mỹ, Anh thời bấy giờ. Thậm chí nó thừa sức bắn tan nát bất cứ pháo đài bê tông cốt thép kiên cố.
Pháo chính S-70 130mm cũng được trang bị công nghệ mới mẻ thời bấy giờ - hệ thống nạp đạn tự động cho tốc độ bắn đến 8 phát/phút (trong ảnh là bộ nạp đạn tự động của IS-7).
Một bộ giáp khủng, hỏa lực siêu nặng, thế cho nên không lạ khi vua tăng hạng nặng IS-7 có trọng lượng lên tới 68 tấn (con số "khủng" thời bấy giờ), dài 7,38m (dài tổng thể 10m gồm cả nòng pháo chính), rộng 3,4m, cao 2,48m. Kíp lái vận hành xe cần tới 5 người.
Để di chuyển con quái vật này, nhà sản xuất đã buộc phải cải tiến động cơ hàng hải M-50T 12 xy lanh 1.050 mã lực cho tốc độ tối đa đến 60km/h trên đường bằng phẳng, tốc độ trên đường ghồ ghề là 32km/h, dự trữ hành trình 300km, lội sâu 1,5m, khả năng leo dốc nghiêng 30 độ. Với tốc độ này, IS-7 được xem là xe tăng hạng nặng nhanh nhất Liên Xô khi mà các “anh em” IS/IS-3 chỉ đạt 37km/h là tối đa.