Theo trang MilitaryFactory, giống như Đức, Liên Xô và Mỹ trong CTTG 2, người Anh cũng đầu tư thời gian và tiền bạc vào việc thiết kế và phát triển xe tăng hạng nặng. Nhiều thiết kế nổi lên và một trong những nỗ lực hồi đầu chiến tranh là cặp xe TOG như TOG-1 và TOG-2 vào năm 1940.Cả hai đều được phát triển bởi một ủy ban mà trong đó phần lớn gồm các thành viên vẫn mang tâm lý từ thời CTTG 1 rằng đặc điểm chiến trường vẫn sẽ là rải rác các mạng chiến hào và được bảo vệ bởi các công sự kiên cố.Do vậy cần những chiếc xe mới, rất nặng nề để thích hợp cho việc phá hủy các chiến hào để hỗ trợ bộ binh đánh bại địch trên địa hình không bằng phẳng. Công việc thiết kế đã được Ủy ban Phát triển xe đặc biệt thông qua và kết quả là xe tăng hạng nặng TOG-2 ra đời. Đó là một con quái thú nặng gần 90 tấn với một kíp xe gồm 6 người.Xe tăng TOG-2 thừa kế một số yếu tố chính của xe TOG-1. Tháp pháo của nó là sử dụng mẫu của tháp pháo xe tăng Challenger (A30) và hai động cơ điện được lắp đặt để cung cấp khả năng truyền dẫn cần thiết.Xe tăng TOG-2 dài 10m và rộng 3,3 m. Kíp xe gồm một lái chính một lái phụ, chỉ huy xe, xạ thủ chuyên dụng và hai người xử lý đạn dược. Việc bảo vệ cho xe gồm lớp giáp bê tông và giáp thép khiến tổng trọng lượng chiến đấu của xe tăng lên đáng kể cũng như hiệu quả của nó.Động cơ của xe là một động cơ diesel – điện 12 xi lanh Paxman – Ricardo tạo ra 600 mã lực và phối hợp với 2 động cơ điện. Tốc độ của nó trên đường có bề mặt lý tưởng đạt 8,5 dặm một giờ nhưng phạm vi hoạt động của nó chỉ 50 dặm.Về mặt cấu trúc, TOG-2 là một chiếc xe khổng lồ nhưng với mẫu hình hộp đã lỗi thời. Bề mặt dọc của xe được chế tạo nhỏ nhưng có giáp dày và nặng để giúp bảo vệ cơ bản cho xe trước đạn bắn vào. Theo Wikipedia, giáp của xe tăng TOG-2 dày 114mm ở phía trước tháp pháo, 76mm ở hai bên và phía trước xe và phía sau xe tăng dày 50mm.Tháp pháo đặt trên thượng tầng của thân xe làm vị trí ngồi của lái xe và cũng mang nét chính của thiết kế thời đó là vuông góc với mặt phẳng xe. Vũ khí chính của xe là một pháo QF 17 cỡ nòng 76,2mm và một súng máy chống bộ binh Besa cỡ nòng 7,92mm đồng trục với pháo chính.Theo trang wiki.wargaming, xe tăng TOG-2 có ưu điểm là bắn nhanh, sức công phá và độ chính xác tuyệt vời, có thể hạ gục bất kỳ xe tăng hạng trung, hạng nặng nào. Tuy nhiên nhược điểm của nó là có kích thước khổng lồ và tốc độ chậm nên dễ trở thành mục tiêu. Do kích thước lớn, TOG-2 rất dễ bị pháo chống tăng nhắm bắn.Pháo của TOG-2 có nhiều khả năng để gây thiệt hại chết người cho các đối thủ của nó. Tuy vậy, thân xe rất dài cũng khiến nó rất khó để bắn. Thông thường phạm vi cự li tốt nhất để bắn của nó là khoảng 360 m. Trong ảnh là pháo QF-17, loại pháo được dùng làm pháo chính cho xe tăng TOG-2.Xe tăng này đã trải qua đánh giá từ năm 1941 nhưng đến suốt mùa hè năm 1943 vẫn chỉ ở trong quá trình thử nghiệm. Tuy nhiên thời gian này, phát triển xe tăng đã thay đổi đáng kể và quân đội Anh đã đưa vào sử dụng các loại xe tăng lớn hơn của Mỹ - bao gồm cả M4 Sherman nên dự án chế tạo TOG-2 bị bãi bỏ.
Theo trang MilitaryFactory, giống như Đức, Liên Xô và Mỹ trong CTTG 2, người Anh cũng đầu tư thời gian và tiền bạc vào việc thiết kế và phát triển xe tăng hạng nặng. Nhiều thiết kế nổi lên và một trong những nỗ lực hồi đầu chiến tranh là cặp xe TOG như TOG-1 và TOG-2 vào năm 1940.
Cả hai đều được phát triển bởi một ủy ban mà trong đó phần lớn gồm các thành viên vẫn mang tâm lý từ thời CTTG 1 rằng đặc điểm chiến trường vẫn sẽ là rải rác các mạng chiến hào và được bảo vệ bởi các công sự kiên cố.
Do vậy cần những chiếc xe mới, rất nặng nề để thích hợp cho việc phá hủy các chiến hào để hỗ trợ bộ binh đánh bại địch trên địa hình không bằng phẳng. Công việc thiết kế đã được Ủy ban Phát triển xe đặc biệt thông qua và kết quả là xe tăng hạng nặng TOG-2 ra đời. Đó là một con quái thú nặng gần 90 tấn với một kíp xe gồm 6 người.
Xe tăng TOG-2 thừa kế một số yếu tố chính của xe TOG-1. Tháp pháo của nó là sử dụng mẫu của tháp pháo xe tăng Challenger (A30) và hai động cơ điện được lắp đặt để cung cấp khả năng truyền dẫn cần thiết.
Xe tăng TOG-2 dài 10m và rộng 3,3 m. Kíp xe gồm một lái chính một lái phụ, chỉ huy xe, xạ thủ chuyên dụng và hai người xử lý đạn dược. Việc bảo vệ cho xe gồm lớp giáp bê tông và giáp thép khiến tổng trọng lượng chiến đấu của xe tăng lên đáng kể cũng như hiệu quả của nó.
Động cơ của xe là một động cơ diesel – điện 12 xi lanh Paxman – Ricardo tạo ra 600 mã lực và phối hợp với 2 động cơ điện. Tốc độ của nó trên đường có bề mặt lý tưởng đạt 8,5 dặm một giờ nhưng phạm vi hoạt động của nó chỉ 50 dặm.
Về mặt cấu trúc, TOG-2 là một chiếc xe khổng lồ nhưng với mẫu hình hộp đã lỗi thời. Bề mặt dọc của xe được chế tạo nhỏ nhưng có giáp dày và nặng để giúp bảo vệ cơ bản cho xe trước đạn bắn vào. Theo Wikipedia, giáp của xe tăng TOG-2 dày 114mm ở phía trước tháp pháo, 76mm ở hai bên và phía trước xe và phía sau xe tăng dày 50mm.
Tháp pháo đặt trên thượng tầng của thân xe làm vị trí ngồi của lái xe và cũng mang nét chính của thiết kế thời đó là vuông góc với mặt phẳng xe. Vũ khí chính của xe là một pháo QF 17 cỡ nòng 76,2mm và một súng máy chống bộ binh Besa cỡ nòng 7,92mm đồng trục với pháo chính.
Theo trang wiki.wargaming, xe tăng TOG-2 có ưu điểm là bắn nhanh, sức công phá và độ chính xác tuyệt vời, có thể hạ gục bất kỳ xe tăng hạng trung, hạng nặng nào. Tuy nhiên nhược điểm của nó là có kích thước khổng lồ và tốc độ chậm nên dễ trở thành mục tiêu. Do kích thước lớn, TOG-2 rất dễ bị pháo chống tăng nhắm bắn.
Pháo của TOG-2 có nhiều khả năng để gây thiệt hại chết người cho các đối thủ của nó. Tuy vậy, thân xe rất dài cũng khiến nó rất khó để bắn. Thông thường phạm vi cự li tốt nhất để bắn của nó là khoảng 360 m. Trong ảnh là pháo QF-17, loại pháo được dùng làm pháo chính cho xe tăng TOG-2.
Xe tăng này đã trải qua đánh giá từ năm 1941 nhưng đến suốt mùa hè năm 1943 vẫn chỉ ở trong quá trình thử nghiệm. Tuy nhiên thời gian này, phát triển xe tăng đã thay đổi đáng kể và quân đội Anh đã đưa vào sử dụng các loại xe tăng lớn hơn của Mỹ - bao gồm cả M4 Sherman nên dự án chế tạo TOG-2 bị bãi bỏ.