Lượng bom Mỹ ném xuống 3 nước Đông Dương trong cả cuộc chiến là 7,85 triệu tấn, gấp gần 3 lần tổng số bom mà mỹ đã sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai và tương đương sức công phá của 250 quả bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống Hiroshima và Nagasaki.Tính bình quân mỗi người Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ phải chịu đựng trên dưới 250 kg bom. Nếu tính cả bom đạn dùng trên mặt đất (lựu đạn, mìn, đạn pháo, chất nổ...) thì Mỹ đã dùng tổng cộng trên 15,35 triệu tấn bom đạn ở Việt NamSau chiến tranh, Việt Nam là một trong những nước có tình trạng ô nhiễm bom, mìn nặng nề nhất trên thế giới. Gần 800.000 tấn bom mìn chưa phát nổ còn sót lại trong lòng đất vẫn tiếp tục gây tai nạn, gây ô nhiễm 6,6 triệu ha đất (chiếm 20% diện tích Việt Nam), khiến nước ta hải chi mỗi năm khoảng 100 triệu USD để khắc phục hậu quả bom mìn.Kháng chiến chống Mỹ là một chiến tranh ác liệt với quy mô lớn kéo dài gần 20 năm. Đây cũng là lần đầu tiên, hậu quả tàn khốc của vũ khí chiến tranh được xuất hiện trên sóng TV trực tiếp của các nước tiên tiến.Chỉ tính riêng trong 81 ngày đêm chiến đấu ở Quảng Trị, báo chí nước ngoài đã thống kê, Thành cổ Quảng Trị đã hứng chịu 328.000 tấn bom đạn, tương đương sức công phá của 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống Hirosima và Nagasaki hồi Chiến tranh thế giới thứ hai.Mỹ đã áp dụng hầu hết các vũ khí tân tiến nhất thời điểm đó, bao gồm các loại bom sát thường, chất độc hóa học và thậm chí từng cân nhắc tới việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật.Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam có ít binh sĩ và vũ khí hơn, trong khi đó quân đội Mỹ được trang bị vũ khí hiện đại bậc nhất thế giới. Ở thời kỳ cao điểm năm 1968, quân Mỹ và đồng minh có số lượng quân sĩ gấp bốn lần ta và gấp hàng chục lần về hỏa lực manh.Ngay cả ở thời điểm cuối năm 1975, khi Mỹ đã rút quân về nước, tay sai của Mỹ ở Việt Nam vẫn mạnh gấp 2 lần về quân số so với Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.Tuy nhiên, chiến thắng chung cuộc lại thuộc về Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đây là điều để lại nhiều bài học về chiến lược chính trị và quân sự cho các nhà nghiên cứu, các tướng lĩnh quân sự sau này.Trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam, khả năng tác chiến công nghệ cao của không quân và hải quân là ưu thế chính của Mỹ, ở thời kỳ cao điểm Mỹ đã huy động 60% không quân và 40% hải quân để tham chiến ở nước ta.Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Liên Xô viện trợ cho một số vũ khí như MiG-21 và SAM-2 để chống lại, nhưng đây cũng chưa phải là những vũ khí hiện đại nhất của Liên Xô khi đó. Tuy nhiên, quân đội ta đã sáng tạo ra những chiến thuật mới, phát huy hiệu quả số lượng trang bị ít ỏi của mình.Tham mưu trưởng Không quân Mỹ Conwell viết: “Lực lượng phòng không của Việt Nam là thứ đáng sợ nhất và hoàn chỉnh nhất mà những phi công Mỹ đã từng gặp”. Mỗi khi người Mỹ tung ra nước đi khó bằng cách áp dụng công nghệ mới vào chiến trường, phía Việt Nam lại sử dụng sự khéo léo để đáp trả.Tổng cộng trong 21 năm, Mỹ đã huy động vào cuộc chiến tranh này 6,6 triệu lượt quân nhân Mỹ (chiếm 15% nam thanh niên toàn nước Mỹ); vào thời điểm cao nhất (năm 1968–1969) có tới 628.000 quân Mỹ hiện diện trên chiến trường bằng tổng số lục quân của cả năm nước Anh, Tây Ban Nha, Bỉ, Canada, Australia cộng lại.Số binh sĩ trên chiếm 70% tổng số lực lượng lục quân Mỹ lúc bấy giờ, với những sư đoàn thiện chiến nhất như Kỵ binh bay, Tia chớp nhiệt đới, Anh cả đỏ, Thuỷ quân lục chiến…Cùng với lục quân, Mỹ huy động 60% không quân chiến lược, chiến thuật với 2.300 máy bay, trong đó có 46% số pháo đài bay B-52 với hơn 200 chiếc, 42% lực lượng hải quân với hàng trăm tàu chiến, trong đó có 15/18 hàng không mẫu hạm, 3.000 xe tăng - xe thiết giáp; 2.000 khẩu pháo hạng nặng từ 120 đến 175mm.Ngoài ra, Mỹ đã đổ tiền của xây dựng một đội quân tay sai ở miền Nam Việt Nam với trang bị 1.800 máy bay, 2.000 xe tăng - thiết giáp, 1.500 khẩu pháo, 2 triệu khẩu súng các loại, 50.000 xe cơ giới quân sự, hàng trăm tàu, thuyền chiến đấu.Hiện nay có hàng vạn nạn nhân chất độc hóa học tại Việt Nam. Một nửa diện tích rừng mưa của Việt Nam bị phá hủy. Mỹ đã rải ở miền Nam Việt Nam 45.260 tấn (khoảng 75 triệu lít) chất độc hóa học, sự tàn phá môi trường do Mỹ gây ra lớn đến mức đã khai sinh một thuật ngữ tiếng Anh mới là “ecocide”. Nguồn ảnh: TheArchive.
Lượng bom Mỹ ném xuống 3 nước Đông Dương trong cả cuộc chiến là 7,85 triệu tấn, gấp gần 3 lần tổng số bom mà mỹ đã sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai và tương đương sức công phá của 250 quả bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống Hiroshima và Nagasaki.
Tính bình quân mỗi người Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ phải chịu đựng trên dưới 250 kg bom. Nếu tính cả bom đạn dùng trên mặt đất (lựu đạn, mìn, đạn pháo, chất nổ...) thì Mỹ đã dùng tổng cộng trên 15,35 triệu tấn bom đạn ở Việt Nam
Sau chiến tranh, Việt Nam là một trong những nước có tình trạng ô nhiễm bom, mìn nặng nề nhất trên thế giới. Gần 800.000 tấn bom mìn chưa phát nổ còn sót lại trong lòng đất vẫn tiếp tục gây tai nạn, gây ô nhiễm 6,6 triệu ha đất (chiếm 20% diện tích Việt Nam), khiến nước ta hải chi mỗi năm khoảng 100 triệu USD để khắc phục hậu quả bom mìn.
Kháng chiến chống Mỹ là một chiến tranh ác liệt với quy mô lớn kéo dài gần 20 năm. Đây cũng là lần đầu tiên, hậu quả tàn khốc của vũ khí chiến tranh được xuất hiện trên sóng TV trực tiếp của các nước tiên tiến.
Chỉ tính riêng trong 81 ngày đêm chiến đấu ở Quảng Trị, báo chí nước ngoài đã thống kê, Thành cổ Quảng Trị đã hứng chịu 328.000 tấn bom đạn, tương đương sức công phá của 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống Hirosima và Nagasaki hồi Chiến tranh thế giới thứ hai.
Mỹ đã áp dụng hầu hết các vũ khí tân tiến nhất thời điểm đó, bao gồm các loại bom sát thường, chất độc hóa học và thậm chí từng cân nhắc tới việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật.
Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam có ít binh sĩ và vũ khí hơn, trong khi đó quân đội Mỹ được trang bị vũ khí hiện đại bậc nhất thế giới. Ở thời kỳ cao điểm năm 1968, quân Mỹ và đồng minh có số lượng quân sĩ gấp bốn lần ta và gấp hàng chục lần về hỏa lực manh.
Ngay cả ở thời điểm cuối năm 1975, khi Mỹ đã rút quân về nước, tay sai của Mỹ ở Việt Nam vẫn mạnh gấp 2 lần về quân số so với Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Tuy nhiên, chiến thắng chung cuộc lại thuộc về Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đây là điều để lại nhiều bài học về chiến lược chính trị và quân sự cho các nhà nghiên cứu, các tướng lĩnh quân sự sau này.
Trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam, khả năng tác chiến công nghệ cao của không quân và hải quân là ưu thế chính của Mỹ, ở thời kỳ cao điểm Mỹ đã huy động 60% không quân và 40% hải quân để tham chiến ở nước ta.
Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Liên Xô viện trợ cho một số vũ khí như MiG-21 và SAM-2 để chống lại, nhưng đây cũng chưa phải là những vũ khí hiện đại nhất của Liên Xô khi đó. Tuy nhiên, quân đội ta đã sáng tạo ra những chiến thuật mới, phát huy hiệu quả số lượng trang bị ít ỏi của mình.
Tham mưu trưởng Không quân Mỹ Conwell viết: “Lực lượng phòng không của Việt Nam là thứ đáng sợ nhất và hoàn chỉnh nhất mà những phi công Mỹ đã từng gặp”. Mỗi khi người Mỹ tung ra nước đi khó bằng cách áp dụng công nghệ mới vào chiến trường, phía Việt Nam lại sử dụng sự khéo léo để đáp trả.
Tổng cộng trong 21 năm, Mỹ đã huy động vào cuộc chiến tranh này 6,6 triệu lượt quân nhân Mỹ (chiếm 15% nam thanh niên toàn nước Mỹ); vào thời điểm cao nhất (năm 1968–1969) có tới 628.000 quân Mỹ hiện diện trên chiến trường bằng tổng số lục quân của cả năm nước Anh, Tây Ban Nha, Bỉ, Canada, Australia cộng lại.
Số binh sĩ trên chiếm 70% tổng số lực lượng lục quân Mỹ lúc bấy giờ, với những sư đoàn thiện chiến nhất như Kỵ binh bay, Tia chớp nhiệt đới, Anh cả đỏ, Thuỷ quân lục chiến…
Cùng với lục quân, Mỹ huy động 60% không quân chiến lược, chiến thuật với 2.300 máy bay, trong đó có 46% số pháo đài bay B-52 với hơn 200 chiếc, 42% lực lượng hải quân với hàng trăm tàu chiến, trong đó có 15/18 hàng không mẫu hạm, 3.000 xe tăng - xe thiết giáp; 2.000 khẩu pháo hạng nặng từ 120 đến 175mm.
Ngoài ra, Mỹ đã đổ tiền của xây dựng một đội quân tay sai ở miền Nam Việt Nam với trang bị 1.800 máy bay, 2.000 xe tăng - thiết giáp, 1.500 khẩu pháo, 2 triệu khẩu súng các loại, 50.000 xe cơ giới quân sự, hàng trăm tàu, thuyền chiến đấu.
Hiện nay có hàng vạn nạn nhân chất độc hóa học tại Việt Nam. Một nửa diện tích rừng mưa của Việt Nam bị phá hủy. Mỹ đã rải ở miền Nam Việt Nam 45.260 tấn (khoảng 75 triệu lít) chất độc hóa học, sự tàn phá môi trường do Mỹ gây ra lớn đến mức đã khai sinh một thuật ngữ tiếng Anh mới là “ecocide”. Nguồn ảnh: TheArchive.