Hơn năm ngàn năm trước, khi người Châu Âu vẫn còn là những nhóm dân du mục sống du cư thì người Hindu cổ đại đã thành lập nền văn minh của văn hóa Harappan. Một số lượng lớn những khái niệm lý thuyết và vật chất được ghi trong các bản viết tay về văn minh Hindu cổ đại đã được khoa học hiện đại ngày nay chứng thực. Lý thuyết nguyên tử. Sage Kanad, người sống ở năm 600 trước Công nguyên, được công nhận là người sáng lập ra lý thuyết nguyên tử, đã phân loại vạn vật được tạo thành từ 9 yếu tố (đất, nước, ánh sáng/lửa, gió, tinh không, thời gian, không gian, tâm trí và linh hồn). Ông tuyên bố rằng mọi vật đều được tạo ra từ các nguyên tử, chúng liên kết với tạo thành phân tử, từ 2.500 năm trước khi John Dalton, được coi là người sáng tạo ra thuyết nguyên tử của phương tây, tìm ra thuyết này. Hơn thế nữa , Kanad còn mô tả kích thước và sự chuyển động của nguyên tử cũng như tương tác hóa học giữa chúng.300 dạng phẫu thuật và 125 dụng cụ. Người Ấn Độ cổ đại cũng là người đầu tiên thực hiện các phẫu thuật cắt bỏ, mổ lấy thai nhi và mở hộp sọ. Từ 600 năm TCN, thầy lang Sushruta đã dùng da người để thực hiện các ca phẫu thuật chỉnh hình thay đổi hình dáng mũi, tai và môi người với kết quả đáng kinh ngạc. Sushruta đã mô tả chi tiết hơn 300 dạng phẫu thuật. Ông làm việc đó với 125 loại dụng cụ phẫu thuật bao gồm dao mổ, lưỡi trích, kim tiêm, ống thông… Sushruta thậm chí còn từng nghĩ ra phương pháp điều trị không cần can thiệp bằng phẫu thuật dựa vào tia ánh sáng và nhiệt độ. Pháp y Chanakya 's Arthashãstra có bản mô tả chi tiết việc khám nghiệm tử thi, còn thầy lang Bhoja Prabandha lại mô tả ca phẫu thuật não, thực hiện thành công vào năm 927 sau Công nguyên bởi 2 nhà phẫu thuật cho vị vua Bhoja. Việc sử dụng thuốc mê là phổ biến trong y học cổ đại Ấn Độ. Các kiến thức chi tiết về giải phẫu, phôi, tiêu hóa, hóa sinh, sinh lý, nguyên chứng, di truyền học và miễn dịch cũng được đề cập đến trong nhiều văn bản cổ đại Ấn Độ.Luật Hấp dẫn của Bhaskaracharya. Bạn có biết rằng, 1.200 năm trước khi Isaac Newton phát minh ra Định luật Vạn vật hấp dẫn, nhà thiên văn học Hindu nổi tiếng Bhaskaracharya trong tác phẩm Surya Siddhanta của mình, đã viết :"Mọi vật rơi xuống đất nhờ vào lực hấp của trái đất. Do vậy, Trái đất, các hành tinh, chòm sao, Mặt trăng, Mặt trời được tập hợp theo qũy đạo là nhờ có lực hấp dẫn thu hút chúng." Thời gian Trái đất quay quanh Mặt trời. Nhà toán học Hindu nổi tiếng, Bhaskaracharya, trong quyển chuyên luận Surya Siddhanta của mình, đã tính toán thời gian cần cho Trái đất quay quanh Mặt trời có độ chính xác lên tới chín chữ số thập phân (365,258756484 ngày). Đo lường hiện đại ngày nay xác định số này là 365.2564 ngày. Nếu giả định về con số ngày nay là chính xác thì sai số của Bhaskaracharya chỉ có 0,0002%.Charaka Samhita: cuốn sách y học đầu tiên của thế giới. Vào 500 năm TCN, trí giả Maharishi Charaka đã viết cuốn sổ tay y học “Charaka Samhita hay y học” nổi tiếng. Cuốn sách này đi sâu vào việc mô tả chi tiết cơ thể con người, các bệnh lý, phương pháp chuẩn đoán và cách điều trị các chứng bệnh khác nhau. Charaka cũng đã mô tả chức năng của tim và hệ tuần hoàn vô cùng chi tiết. Cuốn sách này sau đó đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau, và được giới y học ở cả Ả Rập lẫn đế quốc La Mã thờ phụng. Về Thái dương hệ. Người Hindu cổ đại là người đầu tiên đề xuất khái niệm Thái dương hệ nhật tâm (lấy Mặt trời làm trung tâm). Tốc độ ánh sáng đã được tính ra là 185,016 dặm / giây. Họ thậm chí đã tính được khoảng cách từ Trái đất đến Mặt Trăng bằng 108 lần đường kính của Mặt trăng và Trái đất tới Mặt trời là 108 lần đường kính của Mặt Trời. Những con số vẫn có giá trị đến tận thời hiện đại ngày nay. Tất cả những tuyên bố này đã xuất hiện ngàn năm trước khi nhà khoa học nổi tiếng Galileo công nhận rằng Mặt trời là trung tâm của hành tinh hệ và Trái đất không phẳng.Chu kì sống của vũ trụ. Người Hindu cho rằng vũ trụ không có khởi đầu hay kết thúc, nhưng nó cũng tuân theo quy luật sáng tạo và giải thể. Người Hindu là người duy nhất đề xuất ý tưởng chu kỳ sống của vũ trụ. Ý tưởng này cho rằng vũ trụ đã trải qua vô số lần hủy diệt và tái sinh. Mỗi lần như vậy gọi là một chu kì.Ayurveda - Khoa học của sự Trường Sinh. Ayurveda là hệ thống cơ sở của y học Ấn Độ. Ayurveda theo nghĩa đen có nghĩa là "khoa học về cuộc sống '(tuổi thọ); Ayu - cuộc sống và Veda - Tri thức. Giá trị độc đáo của Ayurveda là nó phát hiện và chữa trị từ căn nguyên gốc rễ của bệnh tật. Nó chỉ ra 6 giai đoạn bệnh phát triển (trong khi y học hiện đại chỉ phát hiện được hai giai đoạn cuối). Ayurveda áp dụng linh hoạt cho từng cá nhân tùy thuộc vào mức độ dosha (3 thể dịch điều khiển sự vận hành của cơ thể sống) hay cơ địa của họ chứ không tính đến yếu tố di truyền.
Hơn năm ngàn năm trước, khi người Châu Âu vẫn còn là những nhóm dân du mục sống du cư thì người Hindu cổ đại đã thành lập nền văn minh của văn hóa Harappan. Một số lượng lớn những khái niệm lý thuyết và vật chất được ghi trong các bản viết tay về văn minh Hindu cổ đại đã được khoa học hiện đại ngày nay chứng thực.
Lý thuyết nguyên tử. Sage Kanad, người sống ở năm 600 trước Công nguyên, được công nhận là người sáng lập ra lý thuyết nguyên tử, đã phân loại vạn vật được tạo thành từ 9 yếu tố (đất, nước, ánh sáng/lửa, gió, tinh không, thời gian, không gian, tâm trí và linh hồn). Ông tuyên bố rằng mọi vật đều được tạo ra từ các nguyên tử, chúng liên kết với tạo thành phân tử, từ 2.500 năm trước khi John Dalton, được coi là người sáng tạo ra thuyết nguyên tử của phương tây, tìm ra thuyết này. Hơn thế nữa , Kanad còn mô tả kích thước và sự chuyển động của nguyên tử cũng như tương tác hóa học giữa chúng.
300 dạng phẫu thuật và 125 dụng cụ. Người Ấn Độ cổ đại cũng là người đầu tiên thực hiện các phẫu thuật cắt bỏ, mổ lấy thai nhi và mở hộp sọ. Từ 600 năm TCN, thầy lang Sushruta đã dùng da người để thực hiện các ca phẫu thuật chỉnh hình thay đổi hình dáng mũi, tai và môi người với kết quả đáng kinh ngạc. Sushruta đã mô tả chi tiết hơn 300 dạng phẫu thuật. Ông làm việc đó với 125 loại dụng cụ phẫu thuật bao gồm dao mổ, lưỡi trích, kim tiêm, ống thông… Sushruta thậm chí còn từng nghĩ ra phương pháp điều trị không cần can thiệp bằng phẫu thuật dựa vào tia ánh sáng và nhiệt độ.
Pháp y Chanakya 's Arthashãstra có bản mô tả chi tiết việc khám nghiệm tử thi, còn thầy lang Bhoja Prabandha lại mô tả ca phẫu thuật não, thực hiện thành công vào năm 927 sau Công nguyên bởi 2 nhà phẫu thuật cho vị vua Bhoja. Việc sử dụng thuốc mê là phổ biến trong y học cổ đại Ấn Độ. Các kiến thức chi tiết về giải phẫu, phôi, tiêu hóa, hóa sinh, sinh lý, nguyên chứng, di truyền học và miễn dịch cũng được đề cập đến trong nhiều văn bản cổ đại Ấn Độ.
Luật Hấp dẫn của Bhaskaracharya. Bạn có biết rằng, 1.200 năm trước khi Isaac Newton phát minh ra Định luật Vạn vật hấp dẫn, nhà thiên văn học Hindu nổi tiếng Bhaskaracharya trong tác phẩm Surya Siddhanta của mình, đã viết :"Mọi vật rơi xuống đất nhờ vào lực hấp của trái đất. Do vậy, Trái đất, các hành tinh, chòm sao, Mặt trăng, Mặt trời được tập hợp theo qũy đạo là nhờ có lực hấp dẫn thu hút chúng."
Thời gian Trái đất quay quanh Mặt trời. Nhà toán học Hindu nổi tiếng, Bhaskaracharya, trong quyển chuyên luận Surya Siddhanta của mình, đã tính toán thời gian cần cho Trái đất quay quanh Mặt trời có độ chính xác lên tới chín chữ số thập phân (365,258756484 ngày). Đo lường hiện đại ngày nay xác định số này là 365.2564 ngày. Nếu giả định về con số ngày nay là chính xác thì sai số của Bhaskaracharya chỉ có 0,0002%.
Charaka Samhita: cuốn sách y học đầu tiên của thế giới. Vào 500 năm TCN, trí giả Maharishi Charaka đã viết cuốn sổ tay y học “Charaka Samhita hay y học” nổi tiếng. Cuốn sách này đi sâu vào việc mô tả chi tiết cơ thể con người, các bệnh lý, phương pháp chuẩn đoán và cách điều trị các chứng bệnh khác nhau. Charaka cũng đã mô tả chức năng của tim và hệ tuần hoàn vô cùng chi tiết. Cuốn sách này sau đó đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau, và được giới y học ở cả Ả Rập lẫn đế quốc La Mã thờ phụng.
Về Thái dương hệ. Người Hindu cổ đại là người đầu tiên đề xuất khái niệm Thái dương hệ nhật tâm (lấy Mặt trời làm trung tâm). Tốc độ ánh sáng đã được tính ra là 185,016 dặm / giây. Họ thậm chí đã tính được khoảng cách từ Trái đất đến Mặt Trăng bằng 108 lần đường kính của Mặt trăng và Trái đất tới Mặt trời là 108 lần đường kính của Mặt Trời. Những con số vẫn có giá trị đến tận thời hiện đại ngày nay. Tất cả những tuyên bố này đã xuất hiện ngàn năm trước khi nhà khoa học nổi tiếng Galileo công nhận rằng Mặt trời là trung tâm của hành tinh hệ và Trái đất không phẳng.
Chu kì sống của vũ trụ. Người Hindu cho rằng vũ trụ không có khởi đầu hay kết thúc, nhưng nó cũng tuân theo quy luật sáng tạo và giải thể. Người Hindu là người duy nhất đề xuất ý tưởng chu kỳ sống của vũ trụ. Ý tưởng này cho rằng vũ trụ đã trải qua vô số lần hủy diệt và tái sinh. Mỗi lần như vậy gọi là một chu kì.
Ayurveda - Khoa học của sự Trường Sinh. Ayurveda là hệ thống cơ sở của y học Ấn Độ. Ayurveda theo nghĩa đen có nghĩa là "khoa học về cuộc sống '(tuổi thọ); Ayu - cuộc sống và Veda - Tri thức. Giá trị độc đáo của Ayurveda là nó phát hiện và chữa trị từ căn nguyên gốc rễ của bệnh tật. Nó chỉ ra 6 giai đoạn bệnh phát triển (trong khi y học hiện đại chỉ phát hiện được hai giai đoạn cuối). Ayurveda áp dụng linh hoạt cho từng cá nhân tùy thuộc vào mức độ dosha (3 thể dịch điều khiển sự vận hành của cơ thể sống) hay cơ địa của họ chứ không tính đến yếu tố di truyền.