Thời của thuyền nan
Ông Đỗ Ngọc Thanh,
Chủ tịch UBND xã An Viên rất tự hào khoe với chúng tôi: "Ở địa phương có làng
nghề đan thuyền nan nổi tiếng lắm, có được một làng nghề cổ kính gắn với sông
nước như vậy không phải đơn giản".
Để minh chứng điều ấy, ông Thanh dẫn
chứng: Ngay cả những cụ cao niên làng Nội Lễ cũng không biết nghề đan thuyền nan
có từ bao giờ, chỉ biết khi sinh ra thì tổ tiên đã làm nghề này rồi. Nhưng theo
một số người dân, Nội Lễ vốn là rốn nước ven dòng sông Luộc, đồng ruộng quanh
năm ngập nước, chỉ cấy được vụ chiêm, còn vụ mùa để trắng cho cua, cá, rong rêu
phát triển.
Với đặc trưng ấy, người Nội Lễ buộc phải nghĩ cách vận chuyển
lúa khi thu hoạch. Và thuyền nan ra đời là phương tiện không thể thiếu trong
nông nghiệp. Thu hoạch xong vụ lúa, thuyền nan giúp họ ra đồng, xuống sông chài
lưới, bắt cua, cá.
Ông Thanh cho biết: "Nghề đan thuyền nan thịnh vượng
nhất vào những năm 1986 - 1998 do nhu cầu của nhân dân địa phương, đồng thời các
nơi cũng đổ về mua thuyền rất nhộn nhịp. Gần như 100% người Nội Lễ đều tham gia
làm nghề".
Và để kiếm thêm thu nhập, làng đan thuyền còn phân công nhau
làm thêm các loại: Thúng mủng, dần sàng, nong, nia, rổ, rá, rế, xảo, đăng, đó...
có chất lượng tốt bán ra ngoài thị trường. Một thời, nhiều chợ quê đều bày bán
các sản phẩm đan lát của Nội Lễ với giá cả phải chăng.
Ông Phạm Văn Mý,
Trưởng thôn Nội Lễ bảo: "Thời của thuyền nan là một kỷ niệm đẹp đối với người
địa phương. Thuở ấy, nhà ai cũng đan thuyền, công việc làm cả ngày không hết,
đan thuyền nan tuy không giàu nhưng cũng không để người ta phải thiếu
thốn".
Còn ông Đỗ Ngọc Thanh, Chủ tịch UBND xã An Viên sau những tự hào
về làng nghề đan thuyền nan "độc nhất vô nhị" của địa phương mình, cũng tỏ ra
băn khoăn khi làng nghề "vượt vũ môn" sang một thứ nghề khác. Nhưng rồi, ông
Thanh đành chậc lưỡi bảo: "Đó âu cũng là thuận theo cơ chế thị trường".
|
Nghề đan lát từng một thời thịnh
vượng. |
Vượt "vũ
môn" sang thuyền... sắt
Lời của ông Đỗ Ngọc Thanh, Chủ tịch UBND
xã An Viên quả không sai, nhất là khi thuyền nan dường như không còn ý nghĩa gì
đối với việc sản xuất nông nghiệp tại địa phương, vả lại, dân tứ xứ cũng không
còn đổ về rầm rộ như trước đặt mua thuyền nan. Và cứ thế, người dân Nội Lễ không
mặn mà gì với nghề cha ông để lại.
Họ đổi đời sang ngành vận tải thủy.
Bắt đầu chỉ là vài ba hộ gia đình có chút vốn liếng gom tiền mua thuyền trọng
tải 300 - 400 tấn, dần dà Nội Lễ xuất hiện cả những con tàu cỡ bự hàng nghìn
tấn. Các tàu thuyền lớn nhỏ này chọn chân cầu Triều Dương là bến đỗ sau mỗi
chuyến đi xa.
Ông Thanh nhẩm tính: "Thôn Nội Lễ bây giờ có 700 hộ với
2.666 nhân khẩu mà đã có tới 200 tàu thuyền. Tàu thuyền nhỏ thì đi trong nước,
tàu lớn thì nhận chuyên chở xi măng, sắt thép các loại đi xuyên quốc
gia".
200 tàu này cần đến trên 800 lao động. Ngoài những thanh niên khoẻ
mạnh của làng tham gia làm nghề, các chủ tàu ở Nội Lễ còn thuê các lao động bên
ngoài với mức lương hấp dẫn. Nội Lễ trở thành làng tỷ phú nổi tiếng ở Hưng Yên.
"Mỗi chủ tàu là một tỷ phú, suy ra làng Nội Lễ có gần 200 đại gia", ông Thanh
nhẩm tính như vậy.
200 con tàu mà người Nội Lễ bỏ tiền ra mua cũng ở mức
con số khủng. Theo thống kê của UBND xã An Viên, tổng số tiền mà người dân "đổ"
ra khoảng tầm 500 tỷ đồng. Một chiếc tàu nhỏ có giá khoảng trên 1 tỷ đồng, tàu
lớn hàng chục tỷ đồng.
Tuy nhiên, một chủ tàu làng Nội Lễ bảo chúng tôi:
"Đầu tư lắm thì chết nhiều. Năm nay, coi như hỏng chú ạ! Tàu thuyền chẳng ai
thuê, được chuyến hợp đồng thì giá bèo bọt, tiền dầu máy công cán tăng vùn vụt,
lãi ngân hàng đã đủ "bóp" chết người vay rồi".
|
Thuyền nan làm ra không có ai
mua. |
Người cũ sót
lại
Tuy Nội Lễ đã trở thành làng tỷ phú, chuyển sang làm nghề vận
tải thủy nhưng vẫn còn sót lại một người tâm huyết với thuyền nan. Đó là ông
Phạm Văn Miền, trong ngôi nhà cấp bốn đầy ắp những tre nứa, ông Miền bảo: "Cái
nghề đan thuyền nan không còn ai theo nữa rồi, làng giờ buồn tênh".
Ở
khoảnh sân nhỏ của nhà ông Miền, còn sót lại 2, 3 cái thuyền nan bị mạng nhện
giăng kín. Ông Miền bảo: "Thì có ai mua đâu mà bán, mình cứ giữ nghề vì không
muốn nghề truyền thống bị mất hẳn mà thôi".
Ông Miền cho hay, trước làng
Nội Lễ có cụ Sỏi là người rành nghề nhất. Cụ được phong nghệ nhân, sản phẩm
thuyền nan của cụ đem đi trưng bày khắp nơi đều được giải cao. Tiếc là cụ mới
qua đời mà không ai học được bí quyết gì.
Ông Miền than thở: "Sống chết
với nghề đan thuyền nan bao nhiêu năm nay, giờ tôi nản rồi. Mua tre nứa ở vùng
cao về đan lát thì kiểm lâm bảo phá rừng, đan xong thì chẳng ai mua. Cứ theo
nghề thì người khác cho rằng mình cổ hủ, không thức thời, nói chung để can đảm
theo nghề cho đến bây giờ đã biến tôi thành... người cũ mất rồi".