Số 37 (4403) Thứ Năm (11/9/2025) 16 Chính ông là người đã đưa những bài toán Việt Nam xuất hiện trong kỳ thi Olympic Toán quốc tế, góp phần khẳng định vị thế trí tuệ Việt trên bản đồ học thuật thế giới. Bên cạnh đó, hàng loạt công trình dịch thuật, giảng dạy và nghiên cứu của ông trở thành tài sản quý giá, nuôi dưỡng khát vọng chinh phục tri thức cho nhiều thế hệ. Bài toán IMO 1977, viên gạch đầu tiên khẳng định vị thế Toán học Việt Nam Năm 1977, kỳ thi Olympic Toán quốc tế (IMO) được tổ chức tại Nam Tư (nay là Serbia). Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một tác giả người Việt Nam có bài toán được lựa chọn đưa vào đề thi chính thức. Đó là bài toán của PGS.TS Phan Đức Chính – dấu mốc khẳng định vị thế Toán học Việt Nam trên đấu trường quốc tế. Bài toán được nêu như sau: Trong một dãy hữu hạn các số thực, tổng của 7 số hạng liên tiếp bất kỳ luôn là số âm và tổng của 11 số hạng liên tiếp bất kỳ là số dương. Xác định số lượng số hạng tối đa của dãy số. Thí sinh Martin Čadek (Cộng hòa Séc) đã được trao giải đặc biệt, bởi cách tiếp cận của anh còn được đánh giá cao hơn cả đáp án chính thức. Điều thú vị là Čadek chỉ giành huy chương đồng năm ấy, nhưng lời giải của anh được nhắc lại như một minh chứng cho sức sống của đề toán đến từ Việt Nam. Bài toán năm 1977 đã mở ra một “chương Việt Nam” trong lịch sử IMO. CHUYỆN ĐỜI MAI LOAN Huyền thoại Phan Đức Chính Người đưa Toán học Việt Nam vươn tầm quốc tế Sau dấu ấn đầu tiên của PGS Phan Đức Chính, ba nhà toán học khác của Việt Nam cũng có bài toán được chọn vào đề thi: GS Văn Như Cương (IMO 1982), TS Nguyễn Minh Đức (IMO 1987), và gần đây nhất là TS Trần Quang Hùng (IMO 2025). Bài toán của PGS.TS Phan Đức Chính tựa như viên gạch đầu tiên, mở ra một chương mới đầy tự hào cho Toán học nước nhà trong hành trình hội nhập quốc tế. Người đặt nền móng cho hệ chuyên Toán Việt Nam Trở về Việt Nam năm 1965 sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại Đại học Lomonosov (Liên Xô), PGS.TS Phan Đức Chính tiếp tục giảng dạy tại Khoa Toán, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Đó là thời điểm đất nước đang trong khói lửa chiến tranh, trường lớp sơ tán, thiếu thốn đủ bề. quản lý tiêu biểu như GS Trần Văn Nhung, GS.TS Đào Trọng Thi, PGS Hoàng Lê Minh, GS Nguyễn Đông Anh, TS Hoàng Ngọc Hà… Không chỉ truyền dạy trên giảng đường, ông còn để lại dấu ấn qua công tác dịch thuật và biên soạn tài liệu. Các bản dịch kinh điển như Lý thuyết hàm số biến số thực (Natanson), Cơ sở Giải tích Toán học (Dieudonné, She-Tzen Hu), Không gian vectơ tôpô (Robertson), Đại số cao cấp (Kurosh)… trở thành tài liệu học thuật quý giá cho nhiều thế hệ. Đặc biệt, cuốn Bất đẳng thức (NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1973) của ông được coi là “sách gối đầu giường” của học sinh và giáo viên chuyên Toán suốt nhiều thập kỷ. Nhà toán học vô hạn chiều Nếu như những công trình nghiên cứu và đóng góp của PGS.TS, NGND Phan Đức Chính đã ghi dấu trong lịch sử Toán học Việt Nam, thì chính nhân cách giản dị, tận tụy và tình yêu thương học trò mới làm nên sức lan tỏa lâu dài của ông. Với nhiều thế hệ học sinh, ông không chỉ là một nhà khoa học uyên bác, mà còn là một người thầy truyền cảm hứng, gieo niềm tin vào con đường học vấn. Các học trò kể lại rằng, bài giảng của thầy Chính thường được ví như “một màn ảo thuật” vừa chặt chẽ, khoa học, vừa hấp dẫn, dễ hiểu. PGS.TS Trần Văn Nhung từng gọi ông là “nhà toán học vô hạn chiều”, không chỉ vì chuyên ngành nghiên cứu toán học hàm vô hạn chiều mà còn bởi trái tim bao la dành cho sự nghiệp trồng người. Nhiều thế hệ học trò thành danh ở trong và ngoài nước vẫn luôn nhắc tới thầy như một biểu tượng mẫu mực về tinh thần học thuật và nhân cách. Một kỷ niệm đặc biệt được PGS. TS Phan Đức Chính chia sẻ, đó là mùa hè 1974, khi dẫn đoàn học sinh Việt Nam tham dự Olympic Toán quốc tế tại CHDC Đức, giành thành tích rực rỡ với huy chương Vàng, Bạc và Đồng, ông xúc động thừa nhận: “Nước mắt cứ trào ra, không sao ngăn nổi…”. Đó là những giọt nước mắt hạnh phúc của một người thầy trọn đời vì học trò và đất nước. Khi rời bục giảng để vào TP HCM sinh sống, ông vẫn không ngừng dìu dắt thế hệ giáo viên trẻ, tiếp tục tham gia huấn luyện đội tuyển quốc gia dự IMO. Nhân cách lớn của ông được thể hiện ở chỗ: dù ở đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào, niềm đam mê toán học và sự tận tụy với học trò vẫn là ngọn lửa không bao giờ tắt. Sự kính trọng mà đồng nghiệp, học trò và xã hội dành cho PGS.TS Phan Đức Chính không chỉ bởi ông là nhà toán học tài năng, mà còn vì ông là một người thầy truyền cảm hứng, một nhân cách lớn hiếm có trong lịch sử giáo dục Việt Nam. Trong lịch sử Toán học Việt Nam hiện đại, NGND.PGS.TS Phan Đức Chính được nhắc đến trước hết như “người khai sinh” hệ chuyên Toán, người thầy trực tiếp dìu dắt bao thế hệ học sinh tài năng. Nhưng chính trong hoàn cảnh khốc liệt ấy, ông cùng các bậc đàn anh như GS Lê Văn Thiêm, TS Hoàng Tụy đã tiên phong mở những “lớp toán đặc biệt” dành cho học sinh cấp III có năng khiếu, theo chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Những lớp học giữa bom đạn không chỉ nuôi dưỡng niềm say mê tri thức mà còn đặt nền móng cho hệ thống trường chuyên Toán, mô hình giáo dục đặc thù sau này được nhân rộng khắp cả nước. Ngay trong năm 1965, thầy Phan Đức Chính trực tiếp huấn luyện đội tuyển học sinh giỏi Toán của Đại học Tổng hợp. Kết quả, đội đã giành tới 9/10 giải trong kỳ thi học sinh giỏi toàn quốc, một chiến thắng vang dội, khẳng định hướng đi đúng đắn của mô hình đào tạo chuyên sâu. Trong suốt nhiều năm gắn bó với khối chuyên Toán, ông đã đào tạo nên hàng loạt học trò xuất sắc, nhiều người trở thành nhà khoa học, nhà giáo, nhà PGS.TS, NGND Phan Đức Chính. Nguồn: GS.TS Nguyễn Duy Tiến. Bài toán của PGS Phan Đức Chính trong đề thi IMO năm 1977. NGUỒN: VIỆN NGHIÊN CỨU CAO CẤP VỀ TOÁN. PGS.TS, Nhà giáo Nhân dân Phan Đức Chính sinh năm 1936 tại Sài Gòn, quê gốc làng Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội. Ông tốt nghiệp Khoa Toán, Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1956 và trở thành giảng viên trẻ của Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1961, ông được cử sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh, bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ tại Đại học Lomonosov (Moskva) năm 1965, khi mới 29 tuổi. Trở về Việt Nam, ông gắn bó cả cuộc đời với sự nghiệp giảng dạy, nghiên cứu và đào tạo nhân tài Toán học. Với những cống hiến xuất sắc, ông được phong học hàm Phó Giáo sư (1980), danh hiệu Nhà giáo Ưu tú (1988) và Nhà giáo Nhân dân (1997). Sau khi qua đời năm 2017 tại TP Hồ Chí Minh, tên tuổi ông tiếp tục được tưởng nhớ bằng nhiều hình thức tôn vinh. Tại Trường THPT Chuyên Khoa học Tự nhiên (ĐHQGHN), một giảng đường lớn mang tên Phan Đức Chính. Gia đình và nhà trường cũng sáng lập Giải thưởng Phan Đức Chính thường niên, với tổng trị giá 100 triệu đồng, trao cho các thầy cô và học sinh xuất sắc trong dạy và học Toán, như một sự tri ân đối với người thầy tài năng và mẫu mực. Thầy Phan Đức Chính cùng Thầy Lê Hải Châu với đội tuyển Việt Nam tham dự IMO 1974. Ảnh: Tư liệu.
RkJQdWJsaXNoZXIy MTYzNTY5OA==