Số 24 (4390) Thứ Năm (12/6/2025) 46 TRÍ THỨC VÀ THỜI CUỘC Bài học rút ra từ những lần sáp nhập tỉnh thành Đây không phải lần đầu tiên, sáp nhập tỉnh thành được triển khai thực hiện, bài học từ những lần sáp nhập trước là gì? - Đây không phải là lần đầu tiên Bộ Chính trị, Ban Bí thư đưa ra định hướng sáp nhập tỉnh, trước đó, nước ta đã trải qua nhiều lần sáp nhập, chia tách các tỉnh, thành phố. Từ thực tiễn trước đó, cần rút ra bài học kinh nghiệm là phải tính toán, cân nhắc nhiều chiều và đánh giá tác động về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại khi quyết định sáp nhập, hợp nhất các tỉnh để khi quyết định sáp nhập, hợp nhất các tỉnh rồi sẽ tạo điều kiện cho đất nước, cho vùng, cho tỉnh mới phát triển nhanh và bền vững hơn; đời sống của Nhân dân được nâng cao hơn; các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước, của tỉnh mới phát triển vững chắc hơn và đặc biệt sẽ không có chuyện sau một thời gian lại phải chia tách tỉnh như trước đây. Có thể nói đây là cuộc cách mạng chưa có tiền lệ về việc sắp xếp tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị để đất nước bước vào kỷ nguyên mới? - Hệ thống chính quyền địa phương ở nước ta đã có nhiều lần sáp nhập, hợp nhất, chia tách, nhưng lần sáp nhập, hợp nhất này được coi là một cuộc cách mạng chưa có tiền lệ vì thứ nhất, cùng một lúc triển khai ở cả ba cấp: cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã; thứ hai, lần đầu tiên trong lịch sử nước ta bỏ cấp huyện, thực hiện chính quyền địa phương hai cấp: cấp tỉnh, cấp xã; thứ ba, lần đầu tiên cùng một lúc sáp nhập, hợp nhất cả cấp tỉnh, cả cấp xã; thứ tư, việc sáp nhập, hợp nhất cấp tỉnh, cấp xã, bỏ cấp huyện được thực hiện trong một thời gian rất ngắn, trong bối cảnh đang tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng; thứ năm, việc sáp nhập, hợp nhất cấp tỉnh, cấp xã được đặt chung trong tổng thể cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị: việc sắp xếp, sáp nhập, hợp nhất các ban, cơ quan Đảng; các bộ, ngành của Chính phủ Trung ương, các Ủy ban của Quốc hội và tương ứng ở cấp tỉnh vừa cơ bản triển khai xong, thì thực hiện ngay việc sáp nhập, hợp nhất cấp tỉnh, cấp xã, bỏ cấp huyện, thực hiện chính quyền địa phương hai cấp, sau đó tiến hành Đại hội Đảng bộ cấp xã, cấp tỉnh tiến tới Đại hội XIV của Đảng. Các ban, cơ quan Đảng, các bộ, ngành ở Chính phủ Trung ương, các Ủy ban của Quốc hội giảm đầu mối; các cơ quan, đơn vị tương ứng của cấp tỉnh giảm đầu mối và theo chủ trương của Trung ương sau sáp nhập, hợp nhất: cấp tỉnh đầu mối giảm từ 63 xuống còn 34, biên chế giảm 18. 440, cấp xã đầu mối giảm từ 10.035 xuống còn hơn 3.320 đơn vị (tương đương 66,91%), biên chế giảm 110.780...;. Như vậy, sau cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy, hệ thống chính trị ở nước ta từ Trung ương đến cấp xã giảm đầu mối, rất tinh gọn; đồng thời sàng lọc, tinh gọn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Đây là tiền đề rất quan trọng, là điều kiện vô cùng cần thiết về tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức để đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc... Về quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm: “trong quá trình sáp nhập tỉnh, cần bảo đảm quản lý đất đai và tài sản công một cách công khai, minh bạch và chuyên nghiệp. Đặc biệt lưu ý các khu vực có tiềm năng phát triển lớn, nhằm tránh thất thoát, lãng phí, lợi ích nhóm”? - Quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm rất đúng đắn, kịp thời nhằm đảm bảo đất đai, tài sản công không bị thất thoát, lãng phí trước, trong và sau khi sáp nhập, hợp nhất cấp tỉnh, cấp xã; nhằm uốn nắn, khắc phục những thực trạng tiêu cực đang diễn ra trong thực tế là nhiều người lợi “Không chỉ đơn thuần là vấn đề điều chỉnh địa giới hành chính mà còn là điều chỉnh không gian kinh tế; điều chỉnh về phân công, phân cấp, điều chỉnh về phân bổ và kết hợp các nguồn lực kinh tế”, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm. Việt Nam có nhiều lần thực hiện sáp nhập tỉnh thành Tháng 4/1975, Việt Nam có 72 đơn vị hành chính cấp tỉnh (miền Bắc có 25 đơn vị và miền Nam có 47 đơn vị). Tháng 12/1975, Quốc hội ra nghị quyết bãi bỏ cấp khu, giải thể khu tự trị, hợp nhất đơn vị hành chính, sáp nhập hàng loạt tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ. Đến đầu năm 1976, việc sáp nhập tiếp tục được thực hiện trên diện rộng trải dài từ Bắc Trung Bộ đến các tỉnh Tây Nam Bộ, Tây Nguyên. Cả nước chỉ còn 38 đơn vị hành chính cấp tỉnh vào năm 1976. Đến năm 1978, Quốc hội phê chuẩn việc mở rộng địa giới Hà Nội, sáp nhập thêm 5 huyện; tách tỉnh Cao Lạng thành 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn. Lúc này, Việt Nam có 39 tỉnh, thành phố. Đến năm 1979, Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo được thành lập, tương đương cấp tỉnh và cả nước tăng lên 40 đơn vị hành chính. Năm 1989, tỉnh Bình Trị Thiên tách ra làm 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế; tỉnh Nghĩa Bình tách ra thành tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Bình Định; tỉnh Phú Khánh tách thành 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. Cả nước khi đó có 44 tỉnh thành (40 tỉnh, 3 thành phố và đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo). Năm 1991, hàng loạt tỉnh được nhập lại trước đây tiếp tục tách ra như tỉnh Hà Sơn Bình tách ra thành tỉnh Hà Tây và tỉnh Hòa Bình; Hà Nam Ninh tách ra thành tỉnh Nam Hà và tỉnh Ninh Bình; Nghệ Tĩnh tách ra thành tỉnh Nghệ An và tỉnh Hà Tĩnh. Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu được thành lập trên cơ sở 3 huyện tách từ tỉnh Đồng Nai hợp nhất với đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo (giải thể đặc khu). Đơn vị hành chính của cả nước tăng lên thành 53 tỉnh thành. Năm 1997, số đơn vị hành chính cấp tỉnh được nâng lên thành 61 khi tỉnh Bắc Thái tách ra thành tỉnh Bắc Kạn và tỉnh Thái Nguyên; tỉnh Hà Bắc chia tách thành tỉnh Bắc Giang và tỉnh Bắc Ninh; tỉnh Nam Hà tách ra thành tỉnh Hà Nam và tỉnh Nam Định; tỉnh Hải Hưng tách thành tỉnh Hải Dương và Hưng Yên; tỉnh Vĩnh Phú tách thành 2 tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ (sau gần 29 năm hợp nhất). Năm 1997, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng chia tách thành 2 đơn vị hành chính là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng (trực thuộc Trung ương); tỉnh Sông Bé tách thành hai tỉnh là Bình Dương và Bình Phước. Số đơn vị hành chính cấp tỉnh ở nước ta tiếp tục tăng lên 64 vào năm 2004 khi tỉnh Đắk Lắk được tách thành hai tỉnh Đắk Nông và Đắk Lắk; Cần Thơ tách ra thành tỉnh Hậu Giang và thành phố Cần Thơ; Lai Châu tách ra thành tỉnh Lai Châu và tỉnh Điện Biên. Giữa năm 2008, Quốc hội biểu quyết thông qua nghị quyết sáp nhập tỉnh Hà Tây, 4 xã của tỉnh Hòa Bình và huyện Mê Linh (tỉnh Vĩnh Phúc) vào Thủ đô Hà Nội. Như vậy, từ năm 2008 đến nay, Việt Nam giữ nguyên số đơn vị hành chính gồm 63 tỉnh, thành phố. dụng việc sáp nhập, hợp nhất cấp tỉnh, cấp xã để trục lợi biến đất công, tài sản công thành đất tư, tài sản tư hoặc nhóm lợi ích chia nhau đất đai, tài sản công trước khi sáp nhập, hợp nhất. Chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm cũng nhằm khắc phục một thực tế là khi sáp nhập, hợp nhất, một số địa phương để lãng phí, thất thoát đất đai, tài sản công do tình trạng “cha chung không ai khóc”, do tình trạng sắp sáp nhập, hợp nhất nên cán bộ, công chức thiếu trách nhiệm, buông lỏng quản lý, cũng có tình trạng cán bộ, công chức lo lắng về vị trí công tác sau sáp nhập, hợp nhất nên lơ là, thiếu trách nhiệm trong công việc... Mục đích sáp nhập lần này là tổ chức bộ máy chính quyền tinh gọn, hiệu quả, hiệu lực, hiện đại, thấm nhuần phương châm "của dân, do dân, vì dân", đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của Nhân dân trong bối cảnh phát triển mới. - Để đạt được mục tiêu, yêu cầu cao như vậy, cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Một là, tăng cường tuyên truyền sâu đậm, có căn cứ thuyết phục nhằm tạo sự thống nhất cao trong Đảng, sự đồng thuận cao trong Nhân dân. Hai là, chuẩn bị thật tốt cả về văn kiện và nhân sự để tổ chức thành công Đại hội Đảng bộ cấp xã, cấp tỉnh theo đúng chỉ đạo trong Chỉ thị số 45 – CT/ TW ngày 14/4/2025 của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng. Ba là, sàng lọc, lựa chọn, bố trí đội ngũ cán bộ cấp tỉnh, cấp xã, nhất là người đứng đầu, thật sự có tâm, có tầm, có phẩm chất chính trị tốt, kiên định lập trường tư tưởng, không dao động trong mọi tình huống; có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trong sáng, không vụ lợi, đặt lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của Nhân dân lên trên hết, trước hết, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân; thật sự có trình độ năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao, ngày càng nặng nề của thời kỳ phát triển mới, đất nước bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; thật sự có uy tín trong Đảng, trong Nhân dân; thực sự đám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung và không cục bộ địa phương, phe cánh, lợi ích nhóm.. Bốn là, tỉnh mới, xã mới sau sáp nhập, hợp nhất phải đi vào hoạt động ngay, không để gián đoạn việc phục vụ người dân, doanh nghiệp..., đảm bảo mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và xã hội diễn ra bình thường, trôi chảy, có chất lượng, hiệu quả hơn, gần dân, sát dân, phục vụ Nhân dân tốt hơn. Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, các cấp ủy Đảng, của tất cả cán bộ, đảng viên nhằm xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, thật sự là đạo đức, là văn minh. Sáu là, nâng cao tính Đảng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hoạt động của bộ máy chính quyền các cấp thật sự hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Bảy là, thực sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, dân là chủ, dân là gốc của mọi quyết sách phát triển đất nước, địa phương. Tám là, có chính sách đãi ngộ thỏa đáng để giữ chân người tài, người làm việc tốt và người bị ảnh hưởng do sắp xếp, tinh gọn bộ máy... Đây là cuộc cách mạng toàn diện, đồng bộ về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2030 nước ta trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
RkJQdWJsaXNoZXIy MTYzNTY5OA==