Khoa học và Đời sống số 24-2025

Số 24 (4390) Thứ Năm (12/6/2025) 43 TRÍ THỨC VÀ THỜI CUỘC XANH nhanh mà còn phải phát triển bền vững, phát triển xanh trong thời gian tới. Phát triển xanh là một khái niệm phức tạp và đa diện, đòi hỏi nỗ lực chung từ chính phủ, doanh nghiệp và cá nhân để tạo ra một tương lai bền vững và thịnh vượng hơn. Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số có thể làm rõ và hỗ trợ phát triển xanh theo các khía cạnh/ hoạt động sau mà Việt Nam phải nhanh chóng thực hiện: Làm rõ hơn, cụ thể hơn nội hàm phát triển xanh, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn,… và hiện trạng, khả năng áp dụng ở Việt Nam. Phải có cách cân đong, đo đếm, xác định mức độ “xanh” trong phát triển, trong kinh tế nói chung và các ngành nói riêng cũng như trong hoạt động sống con người. Rất nhiều định nghĩa, khái niệm về phát triển xanh nhưng đều thống nhất khía cạnh giảm thiểu tác động đến môi trường và xem xét các hệ thống sinh thái, kinh tế và xã hội theo cách cân bằng. Đã có nhiều cách xác định mức độ “xanh” nhưng cần làm rõ hơn khả năng áp dụng ở Việt Nam, đặc biệt là cách tính mức thải (chất ô nhiễm, chất khí nhà kính) trên một đơn vị hàng hóa hay mức tiêu thụ tài nguyên khi sản xuất một đơn vị hàng hóa. Tiến hành kiểm kê mức phát thải chất ô nhiễm (khí, nước, rắn), phát thải chất khí nhà kính đến tận các ngành sản xuất, đơn vị sản xuất, cộng đồng dân cư và xây dựng cơ sở dữ liệu về phát thải. Theo tôi nghĩ, đến năm 2030 phải có cơ sở dữ liệu hoàn chỉnh, dễ cập nhật, trích xuất và sử dụng. Khi đã số hóa đến mức này thì có thể dùng chính số liệu này để tính các mức xanh của hoạt động phát triển, đặc biệt là đo mức phát thải ròng khí nhà kính để có kế hoạch đảm bảo NetZero vào năm 2050. Áp dụng các phương pháp tính toán làm rõ hiệu quả của hoạt động phát triển xanh bằng cách so sánh định lượng (bằng tiền tệ) giữa chi phí và lợi ích thu được khi tiến hành các hoạt động phát triển xanh. Chẳng hạn, làm rõ hiệu quả của việc phát triển điện gió, điện mặt trời liên quan đến giảm phát thải chất ô nhiễm, chất khí nhà kính khi giảm phát triển nhiệt điện. Phát triển khoa học công nghệ rất nhanh, có nhiều đổi mới sáng tạo, đặc biệt là trong chuyển đổi số, trong trí tuệ nhân tạo nên các nhà khoa học, các nhà quản lý phát triển Việt Nam phải liên tục theo dõi nắm bắt và tìm cách áp dụng để đạt mục tiêu phát triển xanh với kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn được triển khai hiệu quả. Cần tổng công trình sư trong các chương trình KH&CN Từ những phân tích trên, chúng ta có thể khẳng định, Nghị quyết 57NQ/TW ra đời trong một thời điểm chiến lược, khi Việt Nam đã tích lũy được những điều kiện nền tảng cho việc đột phá trong KH&CN. Đội ngũ nhà khoa học đông đảo, ngày càng hội nhập quốc tế; cơ sở vật chất nghiên cứu được tăng cường mạnh mẽ trong 20 năm qua; mô hình viện – doanh nghiệp đang hình thành và phát triển; cùng với đó là hệ thống pháp lý dần được hoàn thiện là những yếu tố tích cực tạo tiền đề cho việc triển khai Nghị quyết 57. Tuy nhiên, nếu không có các hành động cụ thể, đồng bộ và mang tính hệ thống thì nguy cơ Nghị quyết 57 trở thành một văn bản chỉ mang ý nghĩa định hướng sẽ rất cao. Do đó, tôi xin đưa ra một số đề xuất, kiến nghị. Thứ nhất, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về đội ngũ nghiên cứu khoa học – công nghệ, đặc biệt là những người có thể đảm nhận vai trò "tổng công trình sư" trong các chương trình KH&CN liên ngành, đa lĩnh vực. Thứ hai, đổi mới mạnh mẽ cơ chế tài chính, đặc biệt là khuyến khích cơ chế đầu tư mạo hiểm, cơ chế đặt hàng nghiên cứu từ doanh nghiệp và xã hội, và cơ chế đánh giá kết quả KH&CN dựa trên tác động thực tiễn thay vì chỉ dựa trên số lượng bài báo. Đẩy mạnh thương mại hóa sản phẩm khoa học, chuyển mạnh từ "nghiên cứu để công bố" sang "nghiên cứu để áp dụng và thương mại hóa". Cần hình thành các trung tâm ươm tạo KH&CN quốc gia kết nối chặt với doanh nghiệp. Phát triển hạ tầng số trong KH&CN, bao gồm hệ thống dữ liệu mở, nền tảng kết nối phòng thí nghiệm, và hệ thống quản lý tài sản trí tuệ đồng bộ toàn quốc. Phát triển văn hóa khoa học, trong đó đề cao sự trung thực học thuật, tinh thần hợp tác và sự tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ. Đây là yếu tố quyết định tạo dựng hệ sinh thái khoa học phát triển lành mạnh, bền vững. Đảm bảo phát triển xanh, phát triển bền vững. Phát triển khoa học công nghệ phải hướng tới phục vụ hoạt động phát triển giảm thiểu tác động đến môi trường và xem xét các hệ thống sinh thái, kinh tế và xã hội theo cách cân bằng. Khi những hành động đó được đồng bộ hóa và thực hiện với quyết tâm cao, chúng ta hoàn toàn có thể kỳ vọng rằng trong vòng 10 - 15 năm tới, Việt Nam sẽ không chỉ là nước tiếp thu công nghệ, mà còn có khả năng sáng tạo, làm chủ và xuất khẩu công nghệ ra khu vực và thế giới. GS.TS Hoàng Xuân Cơ Hội Kinh tế Môi trường (VUSTA) “Việt Nam là một trong những quốc gia phát triển nhanh nhất ở Đông Nam Á, đặt mục tiêu phát triển kinh tế bền vững, với trọng tâm là tăng trưởng xanh” “Phải có cách cân đong, đo đếm, xác định mức độ “xanh” trong phát triển, trong kinh tế nói chung và các ngành nói riêng, hoạt động sống con người” “Đến năm 2030 phải có dữ liệu hoàn chỉnh để… tính các mức “XANH”, đặc biệt đo mức phát thải ròng khí nhà kính để đảm bảo NETZERO vào năm 2050”

RkJQdWJsaXNoZXIy MTYzNTY5OA==