Số 24 (4390) Thứ Năm (12/6/2025) 42 TRÍ THỨC VÀ THỜI CUỘC Để đất nước bước vào kỷ nguyên mới, vươn mình của dân tộc, phát triển xanh bền vững, phát triển dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số… đòi hỏi nỗ lực chung từ Chính phủ, doanh nghiệp và cá nhân để tạo ra một tương lai bền vững, thịnh vượng hơn. Nghị quyết số 57-NQ/TW- cú hích chiến lược Năm 2025 đánh dấu nhiều sự kiện trọng đại, đồng thời cũng là năm cuối của nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu ấn tượng về chính trị, kinh tế, xã hội và vị thế quốc tế. Tuy nhiên, để bước vào giai đoạn phát triển bền vững, có tính đột phá và bắt nhịp với xu thế thời đại, vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KHCN & ĐMST) ngày càng được coi trọng. Trong bối cảnh đó, Nghị quyết 57 ra đời như một cú hích chiến lược để đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và chuyển đổi số quốc gia. Với tầm vóc và nội dung sâu sắc, Nghị quyết 57 không chỉ là định hướng chiến lược mà còn là lời hiệu triệu đối với toàn bộ hệ thống chính trị và cộng đồng khoa học Việt Nam. Là một giảng viên đại học từ 1972 đến 2020 và đã từng tham gia, chủ trì nhiều đề tài nghiên cứu khoa học (NCKH), tôi đã có hiểu biết ít nhiều về hoạt động NCKH của Việt Nam qua các thời kỳ với những quan điểm, cách tiếp cận, quản lý khác nhau. Cụ thể, về các nhóm đối tượng hướng tới của Nghị quyết 57, việc nhận dạng các đối tượng hướng tới của Nghị quyết 57 sẽ giúp chúng ta tập trung phân tích, xem xét kỹ hơn những tác động của nghị quyết này. Thứ nhất, nhóm cơ quan quản lý và lãnh đạo khoa học công nghệ. Các cơ quan lãnh đạo và quản lý KH&CN đóng vai trò trung tâm, là “ông chủ” lớn trong việc hoạch định chính sách, phân bổ nguồn lực và tạo lập hành lang pháp lý thúc đẩy sáng tạo. Nghị quyết 57 xác định rõ vai trò của Nhà nước là người kiến tạo và dẫn dắt phát triển KHCN. Tuy nhiên, trong thực tế, cơ chế điều phối hiện nay còn thiếu tính chủ động và phân mảnh, dẫn tới sự chồng chéo trong phân cấp quản lý và sử dụng nguồn lực. Việc hình thành những đề án tầm quốc gia như nghiên cứu năng lượng nguyên tử, AI, công nghệ sinh học... đòi hỏi phải có "người chủ nhiệm hệ thống" – những nhà quản lý có tầm nhìn, bản lĩnh, am hiểu KH&CN và có khả năng kết nối các nguồn lực đa ngành. Thiếu các “tổng công trình sư” trong lĩnh vực KH&CN là một thiếu hụt nghiêm trọng hiện nay. Để khắc phục, cần xây dựng cơ chế tuyển chọn minh bạch, có tiêu chí đánh giá theo chuẩn quốc tế cho các vị trí này. Chỉ có những đề án lớn, đầu tư lớn, có mục tiêu rõ ràng, thời gian thực hiện đủ dài thì các dự án KH&CN mới có đầu ra không chỉ gói gọn trong sản phẩm mang tính học thuật mà còn là sản phẩm thương mại, hữu hình, cụ thể. Thứ hai, các tổ chức nghiên cứu và nhà khoa học Việt Nam. Nếu các cơ quan quản lý là người đề ra chiến lược, thì các tổ chức nghiên cứu và nhà khoa học là lực lượng thực thi, là “người thực hiện”. Hiện nay, Việt Nam có hàng trăm viện nghiên cứu, trường đại học và trung tâm công nghệ, nhưng phần lớn còn hoạt động đơn lẻ, thiếu cơ chế phối hợp hiệu quả. Điều kiện làm việc là yếu tố then chốt để nhà khoa học phát huy năng lực. Những câu chuyện thành công trong lịch sử (như GS Trần Đại Nghĩa, GS Đặng Văn Ngữ...) cho thấy vai trò đặc biệt của người đứng đầu quốc gia trong việc tạo điều kiện làm việc – nhưng thời đại ngày nay đòi hỏi phải có hệ thống hỗ trợ bền vững hơn: cơ sở vật chất hiện đại, kết nối quốc tế, cơ chế thu nhập và đãi ngộ tương xứng. Một vấn đề khác là việc thu hút trí thức Việt kiều. Cần chính sách minh bạch, thực chất và đủ sức hấp dẫn, trong đó các yếu tố như môi trường học thuật, uy tín tổ chức, cơ hội tiếp cận thiết bị tiên tiến và đảm bảo quyền lợi lâu dài phải được đặc biệt lưu ý. Đề xuất thành lập trung tâm thiết bị dùng chung theo vùng và ngành Cùng với đó, Nghị quyết 57 cũng hướng đến cơ sở hạ tầng khoa học và thị trường sản phẩm KH&CN. Hệ thống phòng thí nghiệm, thiết bị nghiên cứu là nền tảng vật chất của mọi hoạt động KH&CN. Từ năm 2000, Chính phủ đã triển khai chương trình xây dựng Phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia (PTN TĐQG). Dù có một số thành tựu, nhưng việc sử dụng còn hạn chế do thiếu cơ chế khai thác chung, giá dịch vụ không rõ ràng, thiết bị bị phân tán, dẫn đến hiệu suất thấp. Một đề xuất quan trọng là cần thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu mở về thiết bị KH&CN trên phạm vi toàn quốc. Qua đó, các đơn vị có thể truy cập, chia sẻ, thuê mượn và đặt dịch vụ phân tích - thí nghiệm. Ngoài ra, cần có chiến lược quốc gia về sản phẩm KH&CN: chuyển từ kết quả học thuật sang sản phẩm thương mại có khả năng cạnh tranh, hướng đến thị trường nội địa và xuất khẩu. Hiện tại, cơ chế xác định sản phẩm đầu ra còn nặng về hình thức (bài báo, báo cáo tổng kết...) mà thiếu những yêu cầu cụ thể về tính ứng dụng và chuyển giao. Cần thay đổi hệ thống tiêu chí đánh giá đề tài theo hướng định lượng kết quả đầu ra có khả năng thương mại hóa. Ngoài ra, việc thúc đẩy xã hội hóa nghiên cứu khoa học cũng là mục tiêu Nghị quyết 57 hướng đến. Xã hội hóa KH&CN không đơn thuần là vận động tài trợ, mà phải được hiểu là quá trình đưa toàn bộ hệ sinh thái xã hội – doanh nghiệp – người dân – tổ chức nghề nghiệp cùng tham gia sáng tạo, đầu tư, sử dụng và thụ hưởng thành quả KH&CN. Để thực hiện xã hội hóa hiệu quả, trước hết cần hoàn thiện thể chế về tài chính KH&CN ngoài ngân sách nhà nước. Hiện chưa có hành lang pháp lý rõ ràng cho hoạt động đầu tư mạo hiểm, quỹ tư nhân tài trợ cho nghiên cứu, cơ chế chia sẻ lợi nhuận – rủi ro giữa doanh nghiệp và tổ chức KH&CN. Đồng thời, việc kết nối cung – cầu trong KH&CN còn yếu. Chợ công nghệ, sàn giao dịch tri thức, các nền tảng trực tuyến mới chỉ dừng ở mức giới thiệu, chưa hình thành thị trường đúng nghĩa. Đây là thách thức nhưng cũng là cơ hội lớn cho các tổ chức KH&CN trong kỷ nguyên số. Tóm lại, để thực hiện hiệu quả Nghị quyết 57, cần nhìn nhận đúng vai trò và thiết kế chính sách phù hợp cho từng nhóm đối tượng, đồng thời thúc đẩy sự phối hợp liên ngành, liên vùng, liên khu vực công – tư trong toàn bộ hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Hiện trạng nguồn lực hiện nay cho thấy, Việt Nam có truyền thống đào tạo khoa học, nhưng thiếu hệ thống đánh giá và kết nối nhân lực hiệu quả. Cần khẩn trương xây dựng cơ sở dữ liệu toàn diện về đội ngũ KH&CN và cơ chế tuyển chọn chủ nhiệm đề án lớn theo chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, việc đầu tư trang thiết bị và cơ sở vật chất nghiên cứu còn dàn trải, thiếu sử dụng chung. Đề xuất thành lập trung tâm thiết bị dùng chung theo vùng và ngành, kèm quy chế tính chi phí dịch vụ minh bạch. Cần ưu tiên sản xuất thiết bị trong nước nhằm chủ động và giảm chi phí. Bên cạnh đó, kinh phí và cơ chế tài chính cho KH&CN cần được quan tâm. Mục tiêu chi R&D 2% GDP đến 2030 là hợp lý, nhưng phải gắn với đổi mới cơ chế phân bổ – đấu thầu đề tài – đánh giá đầu ra. Khuyến nghị mở rộng Quỹ Nafosted, luật hóa cơ chế đầu tư mạo hiểm và có chính sách bảo lãnh cho doanh nghiệp tham gia KH&CN. Không chỉ phát triển nhanh mà phải xanh Việt Nam, một trong những quốc gia đang phát triển nhanh nhất ở Đông Nam Á, đang đặt mục tiêu phát triển kinh tế bền vững với trọng tâm là tăng trưởng xanh. Trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với thách thức biến đổi khí hậu và sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, tăng trưởng xanh trở thành ưu tiên chiến lược quan trọng để đảm bảo sự phát triển lâu dài. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, Việt Nam cần phải vượt qua nhiều rào cản và thách thức lớn. Tăng trưởng xanh không chỉ là vấn đề bảo vệ môi trường mà còn là cơ hội để phát triển nền kinh tế theo hướng bền vững, tối ưu hóa sử dụng tài nguyên, đồng thời giảm thiểu tác động tiêu cực đến thiên nhiên. Chính vì vậy, việc thúc đẩy các ngành công nghiệp xanh, năng lượng tái tạo, và sản xuất bền vững đã trở thành mục tiêu dài hạn của Chính phủ Việt Nam. Chắc chắn, Nghị quyết 57 đặt ra không chỉ nhằm phát triển đất nước ĐẤT NƯỚC VƯƠN MÌNH… PHẢI PHÁT TRIỂN Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 ra đời như một cú hích chiến lược, không chỉ nhằm phát triển đất nước nhanh mà còn phát triển bền vững, phát triển xanh trong thời gian tới. GS.TS Hoàng Xuân Cơ GS.TS HOÀNG XUÂN CƠ: “Nghị quyết 57-NQ/TW xác định Nhà nước là người kiến tạo và dẫn dắt phát triển khoa học và công nghệ” “Đề án nghiên cứu năng lượng nguyên tử, trí tuệ nhân tạo - AI, công nghệ sinh học… đòi hỏi nhà quản lý có tầm nhìn, bản lĩnh, am hiểu KH&CN và khả năng kết nối các nguồn lực đa ngành”
RkJQdWJsaXNoZXIy MTYzNTY5OA==