Vua Lê Thánh Tông cải tổ tận gốc rễ thể chế
Trong
thời đại trị vì của mình, vua Lê Thánh Tông (1442 – 1497) đã để lại một
dấu ấn sâu đậm trong lịch sử Việt Nam với cuộc cải cách toàn diện thiết
chế chính trị - xã hội nhằm xây dựng một nhà nước pháp quyền vững mạnh.
Về
phân cấp đơn vị hành chính, vào các thời kỳ trước đất nước còn chia
thành “trấn, lộ, phủ, huyện, châu...” thì đến Lê Thánh Tông các đơn vị
lộ, trấn được bãi bỏ, qua đó giảm nhẹ được sự cồng kềnh của bộ máy quản
lý.
|
Tượng vua Lê Thánh Tông.
|
Nhằm
nâng cao quyền lực nhà vua, xây dựng nên bộ máy hành chính có hiệu lực,
hạn chế đến mức thấp nhất sự phân quyền và sự lộng hành của các công
thần, vua Lê Thánh Tông cho bãi bỏ ngay chức tể tướng, cùng các chức tả,
hữu tướng quốc, bộc xạ, đại hành khiển... Đồng thời đặt ra 6 bộ, mỗi bộ
do một thượng thư đứng đầu. Ngoài 6 bộ còn có các viện, các, giám, đài,
ty coi sóc các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật... Qua đó một cơ
chế nhà nước pháp quyền đã hình thành, tạo cơ sở cho cải cách trên các
phương diện khác.
Về giáo dục, nhờ cải cách chế độ khoa cử nên
trong 30 năm vua Lê Thánh Tông cai trị, triều đình đã chọn được 501 tiến
sĩ trong đó có 10 trạng nguyên, mà nhiều người có tài năng đã cống hiến
nhiều cho đất nước. Để không bỏ sót nhân tài, nhà vua còn quy định:
"Lục bộ, lục khoa, ngự sử đài mà tiến cử bậy thì chịu tội giáng hay bãi
chức, nếu tiến cử được người giỏi thì nhất định sẽ được khen thưởng".
Về
luật pháp, nhà vua đã cho ban hành Bộ luật Hồng Đức còn gọi là Quốc
triều hình luật, một bước tiến lớn của nền pháp trị phong kiến Việt Nam
mà cho đến nay các nhà luật học thế giới còn đánh giá cao.
Nhìn
chung, cuộc cải cách của vua Lê Thánh Tông đã đem lại sự thịnh trị cho
nhà Lê cũng như để lại cho ngày nay nhiều bài học quý giá.
8 năm tỏa sáng của Đào Duy Từ
Đào
Duy Từ (1572-1634) là nhà văn hóa, nhà quân sự và danh thần thời chúa
Nguyễn Phúc Nguyên. Trong thời gian làm quan, ông đã thể hiện tài trí
của mình qua các cuộc cải cách trên nhiều lĩnh vực.
Về kinh tế,
Đào Duy Từ vừa khuyến khích phát triển công, thương, vừa cải tiến thu
chi tài chính bằng các biện pháp cụ thể như giảm thuế thu bằng hiện vật,
tăng thu thuế bằng tiền, bãi bỏ lệnh độc quyền của triều đình thu mua
các sản vật công, nông nghiệp để nhân dân có thể tự do mua, bán với
thương nhân trong và ngoài nước.
Các biện pháp này đã thúc đẩy sự
phát triển của nền công, nông nghiệp và nội, ngoại thương. Trên cơ sở
đó nhà nước tăng thu thuế khóa bảo đảm cho sự vận hành của thiết chế
chính trị và quân sự.
Về giáo dục, tuy vẫn tuyển chọn nhân tài
qua khoa cử, nhưng Đào Duy Từ thể hiện sự coi trọng ứng dụng thực tế bên
cạnh việc thi văn sách truyền thống.
|
Di tích Lũy Thầy ở Quảng Bình, một công trình quân sự độc đáo mang dấu ấn của Đào Duy Từ.
|
Về
văn hóa, Đào Duy Từ coi trọng phát triển các loại hình nghệ thuật dân
gian, đặc biệt là nghệ thuật tuồng. Bản thân ông cũng trở thành một
trong những vị tổ sư của ngành hát tuồng, đồng thời còn là một nhà thơ
mở đầu cho trào lưu sáng tác thơ quốc âm ở Đàng Trong, làm phong phú
thêm cho văn học dân tộc.
Lĩnh vực quân sự ghi nhận nhiều đóng
góp quan trọng của Đào Duy Từ. Trên cơ sở kế thừa tư tưởng của Trần Hưng
Đạo trong cuốn Binh thư yếu lược, ông còn bổ sung thêm nhiều yếu tố mới
như làm sâu hơn tư tưởng lấy nhân nghĩa làm đầu, cập nhật các kỹ thuật
quân sự mới mà thời trước chưa có, đề cao trí tuệ dân gian trong các ứng
dụng quân sự. Không dừng lại ở lý thuyết, Đào Duy Từ còn giúp chúa
Nguyễn đẩy mạnh cải tiến vũ khí, xây thành đắp lũy.
Dù chỉ làm
quan trong 8 năm, nhưng các cải cách do ông khởi xướng đã giúp chúa
Nguyễn có một cơ sở xã hội vững chắc và một quân đội hùng mạnh.
Cuộc cải cách “độc nhất vô nhị” của chúa Trịnh Cương
Cải
cách của chúa Trịnh Cương (1716-1729) dù không sâu rộng nhưng lại hết
sức đặc biệt, vì đó là cuộc cải cách tài chính duy nhất trong suốt thời
kỳ Cổ đại và Trung đại của lịch sử Việt Nam.
Cuộc cải cách được
tiến hành trong bối cảnh đất nước mới trải qua thời kỳ nội chiến kéo dài
hơn 1 thế kỷ với những hậu quả kinh tế nặng nề, khiến đời sống của nhân
dân cơ cực. Cải cách tài chính trở thành chìa khóa để vượt qua giai
đoạn khó khăn này.
Trước hết, chúa Trịnh Cương đã cho thực hiện
"Biến pháp" gồm 10 điều nhằm chỉnh đốn kỷ cương phép nước và 2 biện pháp
quản lý kinh tế lớn. Hai biện pháp đó là định lại thể lệ quân cấp công
điền và cấm quan viên chiếm hữu đất trái phép, cấp đất và khuyến khích
dân phiêu tán khẩn hoang.
Sau 7 năm thực hiện các biện pháp trên, cuộc cải cách tài chính mới bắt đầu, gồm 10 hạng mục:
1. Xóa bỏ phép binh lệ, làm lại sổ hộ, bỏ tên người đã chết, thêm số người đến tuổi vào sổ hộ để chịu thuế.
2. Định phép chia đều thuế khóa và tạp dịch cho cả dinh và điền.
3. Đánh thuế ruộng tư.
4. Thu thuế khai thác và tiêu thụ đồng, quế, muối.
5. Giảm bớt viên chức để giảm bớt chi lương bổng.
6. Thi hành phép đánh thuế tô (thuế ruộng), dung (thuế thân), điệu (thuế sai dịch).
7. Đặt thêm sở tuần ty ở các trấn để tận thu thuế thương nghiệp.
8. Thu thuế các loại thổ sản khác.
9. Thu thuế đất ở đô thị.
10. Định ra các thể lệ giảm, miễn thuế...
Ngoài
ra, chúa Trịnh Cương còn thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ cho cải cách
như cấm uống rượu, tiến hành đán, phê bình quan lại địa phượng, cho
phép dân nói về việc xấu của quan lại…
Cải cách tài chính của
chúa Trịnh Cương đã tạm thời giải quyết được khó khăn về kinh tế, người
nông dân có cuộc sống no đủ hơn. Tuy vậy, cuộc cải cách này nhìn chung
vẫn chưa giải quyết được tận gốc của các mâu thuẫn cơ bản và cuộc khủng
hoảng toàn diện của xã hội. Sau cái chết đột ngột của Trịnh Cương, quyền
lực của họ Trịnh dẫn dần suy yếu và đi đến chỗ tiêu vong.
TIN BÀI LIÊN QUAN
BÀI ĐANG ĐỌC NHIỀU