M3A1 Stuart là cỗ xe tăng hạng nhẹ được Mỹ chế tạo từ năm 1941. Xe có tổ lái 4 người, chiều dài 4,25 mét; rộng 2,24 mét và cao 2,3 mét. Nó có tổng trọng lượng gần 13 tấn kèm theo động cơ 262 sức ngựa cho phép di chuyển với tốc độ tối đa lên tới 58 km/h. Nguồn ảnh: Chosul. Xe tăng M3A1 Stuart được trang bị pháo chống tăng 37 mm và 5 súng máy M1919A4 được bố trí ở tháp pháo và xung quanh xe. Những chiếc M3 Stuart đầu tiên được thực chiến ở chiến trường Bắc Phi sau khi Mỹ viện trợ tới hơn 170 chiếc cho quân Anh (khi đó Mỹ mới chỉ sản xuất được 700 chiếc M3). Nguồn ảnh: Chosul.Toàn bộ trang thiết bị của kíp lái 4 người trong xe tăng M3A1 Stuart. Nguồn ảnh: Chosul.Đối đầu với các xe tăng M3A1 ở chiến trường Bắc Phi là những chiếc xe tăng hạng nhẹ Panzer III Ausf G của Đức. Mặc dù xét về lý thuyết chiếc M3 được thiết kế tốt hơn Panzer III, tuy nhiên các quân đoàn thiết giáp châu Phi của Đức lại tác chiến tốt hơn nên phía phát xít chiếm được ưu thế rõ rệt trong cuộc đối đầu này. Nguồn ảnh: Wikimedia.Chưa kể, tốc dù tốc độ tối đa của M3 đạt 53 km/h nhưng tầm hoạt động của nó chỉ có... 113 km. Nghĩa là xe chạy được 2 tiếng thì lại phải dừng lại đổ xăng một lần. So với chiến trường rộng lớn toàn sa mạc như ở Bắc Phi việc có tầm hoạt động chỉ 113 km rõ ràng là quá ít ỏi. Nguồn ảnh: Motobug.Binh lính Anh đã tìm cách khắc phục đó là treo thêm bình xăng phụ trên lưng chiếc M3. Tuy nhiên việc này lại rất mạo hiểm vì nếu vào trận mà kíp lái không kịp tháo bình xăng phụ hoặc trong trường hợp bị đánh úp bất ngờ các bình xăng này sẽ rất có thể biến cả chiếc M3 thành một ngọn đuốc di động. Nguồn ảnh: Flickr.Điểm yếu tiếp nữa của chiếc M3 đó là để đánh đổi lại sự cơ động vượt địa hình người ta đã thiết kế hệ thống treo của xe theo hướng lộ thiên. Việc này sẽ làm giảm giá thành chế tạo, giảm thời gian sửa chữa nhưng lại dễ bị hư hại nếu đối phương cố tình nhắm vào đây để triệt hạ chiếc M3. Nguồn ảnh: Prime.Ngoài ra, việc bố trí các bánh trục bé và hệ thống treo bên ngoài xe cũng khiến chiếc M3 mất đi một lớp bảo vệ nữa ở cạnh xe, trong khi chiếc Panzer III của Đức có hệ thống trục xe bên trong và bánh xe lớn hơn giúp nó có khả năng che đạn cho tổ lái bên trong dù việc sửa chữa khó khăn hơn rất nhiều. Ảnh: Một chiếc M3 trên chiến trường Nhật Bản, về sau phần lớn những chiếc M3 Stuart được đưa sang Nhật Bản để tác chiến với đội quân có lực lượng yếu kém hơn rất nhiều thay vì đối đầu với lực lượng thiết giáp vượt trội của Đức. Nguồn ảnh: Anzac.Ảnh: Một chiếc M3 tuột xích do dính mìn bộ binh. Ngoài các kíp lái của quân đội Anh còn kêu ca về các trục trặc kỹ thuật khiến xe bị "bó máy" khi hoạt động dưới cái nóng của Châu Phi, hệ thống súng máy quá "lằng nhằng" với tận 5 khẩu khiến binh lính vướng víu khi thao tác phía trong xe. Về sau, ngoài một phần lớn xe tăng M3 được chuyển sang mặt trận Thái Bình Dương, số còn lại được cải biến thành xe trinh sát, tháo tháp pháo làm xe Kangaroo chở quân hoặc chuyển đổi thành xe chỉ huy. Nguồn ảnh: Pinterest.
M3A1 Stuart là cỗ xe tăng hạng nhẹ được Mỹ chế tạo từ năm 1941. Xe có tổ lái 4 người, chiều dài 4,25 mét; rộng 2,24 mét và cao 2,3 mét. Nó có tổng trọng lượng gần 13 tấn kèm theo động cơ 262 sức ngựa cho phép di chuyển với tốc độ tối đa lên tới 58 km/h. Nguồn ảnh: Chosul.
Xe tăng M3A1 Stuart được trang bị pháo chống tăng 37 mm và 5 súng máy M1919A4 được bố trí ở tháp pháo và xung quanh xe. Những chiếc M3 Stuart đầu tiên được thực chiến ở chiến trường Bắc Phi sau khi Mỹ viện trợ tới hơn 170 chiếc cho quân Anh (khi đó Mỹ mới chỉ sản xuất được 700 chiếc M3). Nguồn ảnh: Chosul.
Toàn bộ trang thiết bị của kíp lái 4 người trong xe tăng M3A1 Stuart. Nguồn ảnh: Chosul.
Đối đầu với các xe tăng M3A1 ở chiến trường Bắc Phi là những chiếc xe tăng hạng nhẹ Panzer III Ausf G của Đức. Mặc dù xét về lý thuyết chiếc M3 được thiết kế tốt hơn Panzer III, tuy nhiên các quân đoàn thiết giáp châu Phi của Đức lại tác chiến tốt hơn nên phía phát xít chiếm được ưu thế rõ rệt trong cuộc đối đầu này. Nguồn ảnh: Wikimedia.
Chưa kể, tốc dù tốc độ tối đa của M3 đạt 53 km/h nhưng tầm hoạt động của nó chỉ có... 113 km. Nghĩa là xe chạy được 2 tiếng thì lại phải dừng lại đổ xăng một lần. So với chiến trường rộng lớn toàn sa mạc như ở Bắc Phi việc có tầm hoạt động chỉ 113 km rõ ràng là quá ít ỏi. Nguồn ảnh: Motobug.
Binh lính Anh đã tìm cách khắc phục đó là treo thêm bình xăng phụ trên lưng chiếc M3. Tuy nhiên việc này lại rất mạo hiểm vì nếu vào trận mà kíp lái không kịp tháo bình xăng phụ hoặc trong trường hợp bị đánh úp bất ngờ các bình xăng này sẽ rất có thể biến cả chiếc M3 thành một ngọn đuốc di động. Nguồn ảnh: Flickr.
Điểm yếu tiếp nữa của chiếc M3 đó là để đánh đổi lại sự cơ động vượt địa hình người ta đã thiết kế hệ thống treo của xe theo hướng lộ thiên. Việc này sẽ làm giảm giá thành chế tạo, giảm thời gian sửa chữa nhưng lại dễ bị hư hại nếu đối phương cố tình nhắm vào đây để triệt hạ chiếc M3. Nguồn ảnh: Prime.
Ngoài ra, việc bố trí các bánh trục bé và hệ thống treo bên ngoài xe cũng khiến chiếc M3 mất đi một lớp bảo vệ nữa ở cạnh xe, trong khi chiếc Panzer III của Đức có hệ thống trục xe bên trong và bánh xe lớn hơn giúp nó có khả năng che đạn cho tổ lái bên trong dù việc sửa chữa khó khăn hơn rất nhiều. Ảnh: Một chiếc M3 trên chiến trường Nhật Bản, về sau phần lớn những chiếc M3 Stuart được đưa sang Nhật Bản để tác chiến với đội quân có lực lượng yếu kém hơn rất nhiều thay vì đối đầu với lực lượng thiết giáp vượt trội của Đức. Nguồn ảnh: Anzac.
Ảnh: Một chiếc M3 tuột xích do dính mìn bộ binh. Ngoài các kíp lái của quân đội Anh còn kêu ca về các trục trặc kỹ thuật khiến xe bị "bó máy" khi hoạt động dưới cái nóng của Châu Phi, hệ thống súng máy quá "lằng nhằng" với tận 5 khẩu khiến binh lính vướng víu khi thao tác phía trong xe. Về sau, ngoài một phần lớn xe tăng M3 được chuyển sang mặt trận Thái Bình Dương, số còn lại được cải biến thành xe trinh sát, tháo tháp pháo làm xe Kangaroo chở quân hoặc chuyển đổi thành xe chỉ huy. Nguồn ảnh: Pinterest.