Báo động thừa cân béo phì ở trẻ em: Vì đâu nên nỗi?

Google News

(Kiến Thức) - Theo một số thống kê, từ năm 1980 đến 2013, ở Việt Nam, tỷ lệ thừa cân, béo phì tăng 27,5% ở người lớn và 47,1% nhóm trẻ em.

Tại Việt Nam, con số thống kê ở Hà Nội cho thấy, thừa cân, béo phì của trẻ em ở trường mầm non thuộc quận Đống Đa là 21,1%, Ba Vì 7,6%. Năm 2003 tại Đống Đa, thừa cân béo phì ở trẻ 4 - 6 tuổi là 2,5%, học sinh tiểu học là 7,6%. Còn tại TP. HCM tỷ lệ thừa cân là 17,8%, béo phì 3,2%.
Thừa cân béo phì đem lại những hậu quả nghiêm trọng cho sức khoẻ, là nguyên nhân của nhiều căn bệnh nghiêm trọng như tiểu đường, tim mạch, ung thư... Tuy nhiên, người Việt Nam vẫn chưa quan tâm nhiều đến nguy cơ từ căn bệnh này đem lại.
Chính vì vậy, việc nâng cao nhận thức của cộng đồng về thừa cân, béo phì là cần thiết. Đây chính là lý do cho việc ra đời của hội thảo mang tên "Phòng chống béo phì, thừa cân ở Việt Nam và cảnh báo của chuyên gia" được tổ chức ngày 18/10/2017 tại, Hà Nội.
Hội thảo quy tụ 200 đại biểu, doanh nhân, người nổi tiếng và các chuyên gia hàng đầu về dinh dưỡng, y tế đến từ Bộ y tế, Hội Dinh dưỡng Việt Nam, Viện Dinh dưỡng Việt Nam, Bệnh viện Nhi TƯ, Hiệp hội KHKT an toàn thực phẩm Việt Nam, lãnh đạo các trường phổ thông, mầm non, các Hội cha mẹ học sinh, những người quan tâm đến dinh dưỡng.
Bao dong thua can beo phi o tre em: Vi dau nen noi?
 Buổi hội thảo sáng nay (18/10).
Số lượng trẻ em béo phì tăng chóng mặt
Tại buổi hội thảo, TS Từ Ngữ (Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Dinh Dưỡng Việt Nam) chia sẻ: “Béo phì gây ra nhiều hậu quả y khoa: Không dung nạp glucose, rối loạn lipid máu, hội chứng buồng trứng đa nang, bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu - thoái hóa mỡ gan hoặc viêm gan nhiễm mỡ, tăng huyết áp, sỏi mật, đau đầu giả u não Cơ học, chứng ngưng thở khi ngủ…”
Còn GS. TS Lê Thị Hợp (Chủ tịch Hội Dinh dưỡng Việt Nam) thì cho hay: “Béo phì từ trẻ em tuổi tiền học đường và học đường đến tuổi trưởng thành đang gia tăng ở Việt Nam, đặc biệt ở các thành phố lớn như TPHCM, Hà Nội. Tỷ lệ thừa cân, béo phì ở trẻ dưới 5 tuổi ở TPHCM đã gia tăng gấp 3 lần trong hơn 10 năm qua, từ 3,7% (năm 2000) lên 11,5% (năm 2013) và tỷ lệ thừa cân, béo phì ở học sinh phổ thông tại TPHCM tăng gấp đôi, từ 11,6% (năm 2002) lên 21,9% (năm 2009)”.
Theo TS Trương Hồng Sơn (Viện trưởng Viện Y học Ứng dụng, Tổng hội Y học Việt Nam): “Ở 8 thành phố lớn ở Việt Nam: Hà Nội, TP.HCM, Hải Phòng, Cần Thơ, Đà Nẵng… số lượng trẻ suy dinh dưỡng nhẹ cân ước tính khoảng 100 nghìn trẻ nhưng trẻ thừa cân béo phì cũng đã xấp xỉ con số đó. Như vậy trẻ thừa cân béo phì và trẻ suy dinh dưỡng ở các thành phố lớn đang gần như ngang nhau.
Mục tiêu của chương trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em là khống chế tỷ lệ trẻ béo phì dưới 5 %, và không có tỉnh nào vượt quá 10 %, nhưng đến thời điểm này mục tiêu đó đã bị phá vỡ. Ở TP.HCM, các kết quả của nhiều nghiên cứu đều chỉ ra số lượng trẻ em thừa cân béo phì đã vượt xa số lượng trẻ bị suy dinh dưỡng. Nghiêm trọng nhất là xu hướng tăng của tỷ lệ thừa cân ở Việt Nam là rất nhanh.
Có thể nói, trẻ thừa cân béo phì là xu hướng đáng lo ngại không chỉ riêng Việt Nam mà trên toàn cầu. Trong khi tỷ lệ suy dinh dưỡng đã được khống chế và giảm nhiều thì cho đến nay chưa có Châu lục hay quốc gia nào thành công trong việc ngăn chặn sự tăng lên của tỷ lệ thừa cân/ béo phì”.
Bao dong thua can beo phi o tre em: Vi dau nen noi?-Hinh-2
TS Từ Ngữ (Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Dinh Dưỡng Việt Nam) phát biểu tại hội nghị. 
Nguyên nhân vì đâu?
Theo Ths. BS Nguyễn Thị Lan Phương (Viện Dinh dưỡng Quốc gia): “Theo nghiên cứu trên học sinh một số trường THCS ở TP.HCM, đa số khẩu phần năng lượng và một số vi chất của trẻ em học đường nói chung vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu khuyến nghị 2016 của Viện Dinh dưỡng”.
Theo một nghiên cứu khác trên học sinh một số trường tiểu học ở Hải Phòng cho thấy, việc tiêu thụ nước giải khát 1-3 lần/ngày làm tăng nguy cơ thừa cân béo phì ở trẻ lên khoảng từ 2-6 lần. Tiêu thụ các thực phẩm giàu đường mật hàng ngày làm tăng nguy cơ thừa cân béo phì lên 2 lần.
Bên cạnh đó, việc trẻ em dùng nhiều các loại nước ngọt có ga cũng được cho là một trong những nguyên nhân dẫn tới béo phì.
“Dùng quá nhiều nước ngọt có ga được coi là một trong những nguyên nhân dẫn đến béo phì bởi trong nước ngọt chứa nhiều đường đơn nếu tiêu thụ nhiều hơn mức 5% tổng năng lượng trong ngày như mức của WHO khuyến cáo thì có thể gây rối loạn chuyển hoá, rối loạn chất béo dẫn đến bệnh béo phì, nhất là ở trẻ em. Không nên khuyến khích trẻ uống nước ngọt có ga đều đặn và thường xuyên, tuy nhiên nếu dừng lại ở mức 1 – 2 lon/ tuần thì có thể chấp nhận được”, TS Nguyễn Trọng Hưng (Viện Dinh dưỡng Quốc gia) cho biết.
Cũng theo ông Hưng, cha mẹ lưu ý là cần kiểm soát cả lượng bánh kẹo ngọt con ăn vào trong ngày, vì đường không chỉ đến từ con đường nước ngọt có ga. Nếu chỉ kiểm soát nước ngọt mà không kiểm soát những loại thực phẩm kể trên thì tổng lượng đường đơn trẻ tiêu thụ trong ngày rất dễ vượt mức cho phép.
Ngoài ra, theo PGS TS Nguyễn Tiến Dũng – Nguyên trưởng khoa Nhi BV Bạch Mai thì việc trẻ em béo phí cũng một phần là do quan niệm ăn uống của người Việt.
“Từ xa xưa, đất nước ta còn nghèo, thiếu ăn, người suy dinh dưỡng nhiều, người dân luôn cho rằng cứ béo tốt là béo khỏe, béo đẹp nên ai cũng thích béo, càng béo càng thích. Cũng theo quan niệm văn hóa của người Việt nữa là ăn, cái gì cũng ăn. Văn hoá này xuất hiện ngay cả trong danh từ, bao giờ người ta cũng đệm từ “ăn” ghép vào một từ khác, như ăn mặc, ăn uống, ăn nằm, ăn ở, ăn chơi… Do vậy, khi nền kinh tế chuyển từ chỗ nghèo đói sang kinh tế khá giả hơn nhưng chính chúng ta cũng chưa biết cách hãm cái ăn lại. Tóm lại, có 2 điểm mấu chốt ăn sâu trong suy nghĩ của cha mẹ là: Con tôi béo là khỏe, hai nữa là văn hóa ăn… chính điều này là nguyên nhân gia tăng tỉ lệ thừa cân, béo phì ở trẻ”, ông Dũng chia sẻ.
Làm thế nào để kiểm soát cân nặng?
“Một trong những biện pháp tốt để kiểm soát cân nặng là thay đổi lối sống, hành vi. Đó là tăng hoạt động thể lực: Thời gian hoạt động ở mức trung bình ít nhất 60 phút/ngày. Giảm thời gian tĩnh tại. Trẻ dưới 2 tuổi không xem ti vi, trẻ lớn hơn thì chỉ được xem tivi dưới 2giờ/ngày hoặc dưới 14 giờ/tuần. Thay đổi hành vi: Khuyến khích việc tự kiểm soát, tự đặt mục tiêu. Ngủ: 0-5 tuổi (ngủ đủ 11 giờ/ngày); 5-10 tuổi (10 giờ /ngày); trên 10 tuổi (ngủ đủ 9 giờ /ngày)”, TS Lưu Thị Mỹ Thục - Trưởng khoa Dinh dưỡng, bệnh viện Nhi TW nói.
P.H

>> xem thêm

Bình luận(0)