Những cái chết bí ẩn quanh vụ ám sát Tổng thống Kennedy

Google News

Nhiều người có liên quan đến quá trình điều tra vụ ám sát Tổng thống Mỹ John F. Kennedy đã không qua đời vì lý do tự nhiên.

Jack Duffy, một luật sư ở Ft. Worth (bang Texas), đã dành 40 năm qua để nghiên cứu về những chi tiết liên quan đến vụ ám sát Tổng thống John F. Kennedy. Thống kê về những người liên quan tới vụ việc này đã chết không vì lý do tự nhiên được ông đăng trên trang web cuốn sách của mình là "The man from 2063".
Michael Groves mất ngày 3/12/1963. Ông là người đã chỉ huy đội tiêu binh danh dự trong đám tang cố Tổng thống John F. Kennedy. Groves qua đời một cách bí ẩn sau tang lễ của vị tổng thống trẻ 7 ngày. Hôm đó, khi đang dùng bữa tối, người đàn ông này bỗng nhiên lăn ra bất tỉnh và chết ngay sau đó. Ngày 12/12 cùng năm, toàn bộ tài sản của ông bị thiêu rụi trong một đám cháy đáng ngờ. Nhiều thông tin cho biết, đội tiêu binh danh dự đã tập dượt những nghi thức của một tang lễ dành cho tổng thống trước vụ ám sát Kennedy chỉ 3 ngày.
Jack Zangretti mất ngày 7/12/1963. Người này là quản lý của khách sạn "The Red Lobster" tại hồ Lugert ở bang Oklahoma, Mỹ. Hôm 23/11/1963, một ngày sau vụ ám sát Tổng thống Kennedy, Zangretti đã khoe khoang về vụ ám sát và nói rằng Jack Ruby, một chủ hộp đêm ở Dallas (Texas), sẽ giết Lee Harvey Oswald, kẻ đã ám sát ông Kennedy. Hai tuần sau đó, người ta tìm thấy xác Zangretti nổi trên hồ Lugert.
Eddy Benavides mất vào tháng 2/1964. Eddy là anh trai của Domingo Benavides, người đã chứng kiến cái chết của viên cảnh sát JD Tippit vào ngày 22/11/1963. Domingo đã nói rằng nhiều bằng chứng cho thấy cái chết của Tippit có thể không phải do Oswald gây ra trên đường tẩu thoát. Cũng giống như Domingo, Eddy bị một kẻ nào đó bắn vào đầu bởi "nhận nhầm người".
Hank Killam mất ngày 17/3/1964. Killam là chồng của Wanda Joyce, một vũ nữ thoát y làm việc tại hộp đêm của Ruby. Anh ta làm việc với John Carter, một người trọ tại ngôi nhà mà Oswald ở. Nhiều người cho rằng, Killam có thể đã biết về mối liên hệ nào đó giữa Oswald và Ruby. Anh đã rời khỏi thành phố Dallas và chuyển đến vùng Pensacola tại bang Florida, rồi tới thành phố Tampa và lại chuyển về vùng Pensacola. Killam từng nói với Earl, anh trai của anh, rằng: "Em là một kẻ đã chết. Em sẽ chạy cho tới khi nào còn có thể". Sau đó, thi thể của anh được tìm thấy tại cửa sổ của một cửa hàng bách hóa tại vùng Pensacola với một vết cắt dài ở cổ. Cảnh sát điều tra tuyên bố, Killam đã tự tử.
John Underhill, hay còn gọi là Garrett Underhill, mất ngày 8/5/1964. Underhil là người đã nói với Charlene Fitsimmons, một người bạn của ông, rằng một phe nhỏ trong CIA là những kẻ liên quan đến vụ ám sát Tổng thống Kennedy. Kết quả pháp y kết luận rằng ông đã dùng súng để tự sát. Vết đạn nằm ở vị trí đằng sau tai trái nhưng ông lại là người thuận tay phải.
James Koethe mất ngày 21/9/1964. Koethe là một phóng viên của tờ Dallas Times Herald. Anh là một trong 5 người đã gặp Ruby vào tối ngày 24/11/1963 và tới thăm hắn tại nhà tù. Các nhà điều tra kết luận rằng, anh tử vong do bị một người nào đó đánh một món đòn karate vào cổ họng. Luật sư của Koethe cho rằng Reno, kẻ được cho là người đã giết Koethe, không đủ khả năng để chế ngự và giết chết thân chủ của ông.
Rose Cheramie mất ngày 4/9/1965. Cô là một vũ nữ thoát y làm việc trong hộp đêm của Ruby. Ngày 19/11/1963, Cheramie bị ném ra khỏi một chiếc xe ở bang Louisana nhưng vẫn sống sót. Sau đó, cô đã báo với cảnh sát rằng Tổng thống Kennedy sẽ bị ám sát tại thành phố Dallas vào ngày 22/11 năm đó. Cô vũ nữ này cũng cho biết, cô đã nhiều lần nhìn thấy Oswald và Ruby gặp nhau tại hộp đêm của Ruby. Người ta tìm thấy xác của cô nằm ở giữa một con đường tại bang Texas. Nguyên nhân cái chết được cho là vì tai nạn ô tô.
Dorothy Kilgallen mất ngày 8/11/1965. Bà là người phụ trách một chuyên mục của một tờ báo. Kilgallen đã từng thực hiện một cuộc phỏng vấn bí mật với Ruby vào tháng 3/1964. Sau đó, bà đã nói với một vài người bạn rằng đã "bắt được" một thông tin mới có thể "gây bão" trong câu chuyện về vụ ám sát vị tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ. Ngày 8/11/1965, một người thợ cắt tóc đã tìm thấy thi thể của bà tại nhà riêng ở thành phố New York. Các bác sĩ pháp y cho rằng, Kilgallen đã chết do dùng thuốc an thần quá liều.
Albert Bogard mất ngày 14/2/1966. Anh là nhân viên bán xe làm việc tại đại lý của công ty Lincoln Mercury ở thành phố Dallas. Bogard từng nói với Ủy ban Warren rằng anh đã gặp một người đàn ông tự xưng là Lee Oswald tới xem xe vào hôm 9/11/1963. Lời khai của anh đã trải qua bài kiểm tra phát hiện nói dối. Tuy nhiên, các nhà điều tra đã đưa ra những bằng chứng chứng tỏ rằng Oswald thực sự đã ở một nơi khác vào ngày hôm đó. Người ta đã tìm thấy thi thể của Bogard trong một chiếc xe tại thành phố Hallsvill. Nguyên nhân cái chết là do ngạt thở do ngộ độc khí CO.
Lee Bowers mất ngày 9/8/1966. Ông là một trong những nhân chứng quan trọng trong vụ ám sát Tổng thống Kennedy. Bowers từng nói rằng, ông đã nhìn thấy hai người đàn ông đứng sau gò cỏ vào thời điểm vụ ám sát xảy ra. Ông qua đời sau một vụ tai nạn xe hơi đáng ngờ.
William Pitzer mất ngày 29/10/1966. Ông là người đã quay phim và chụp ảnh khám nghiệm tử thi của cố Tổng thống Kennedy. Pitzer từng nói với bạn bè và gia đình của ông rằng, vị tổng thống trẻ bị ám sát bởi một âm mưu. Sau đó, Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) đã thẩm vấn và yêu cầu ông giữ im lặng đối với những gì ông đã nhìn thấy. Người ta tìm thấy một khẩu súng lục, cỡ nòng 0,45 ly trong tay phải của Pitzer sau khi phát hiện ra thi thể của ông. Tuy nhiên, ông là người thuận tay trái.
 Jack Ruby là kẻ đã bắn chết Oswald, nghi phạm duy nhất trong vụ ám sát Tổng thống Kennedy. Ảnh: AP.
Jack Ruby mất ngày 3/1/1967. Ruby qua đời vì căn bệnh ung thư phổi mặc dù ông ta chẳng bao giờ hút thuốc. Ông chủ hộp đêm này cho rằng ông ta đã bị người ta tiêm tế bào ung thư vào người. Năm 1960, CIA đã tiến hành thử nghiệm việc tiêm tế bào ung thư ở chuột. Ruby từng nói rằng Kennedy bị ám sát bởi một âm mưu.
David Ferrie mất ngày 22/2/1967. Hắn là bạn thân của Carlos Marcello, bố già vùng New Orleans. Cảnh sát tìm thấy thi thể Ferrie trong căn hộ ngay sau khi bị cáo buộc là đã tham gia vào âm mưu ám sát tổng thống năm 1963. Nguyên nhân dẫn đến cái chết được xác định là do xuất huyết não.
Hale Boggs mất ngày 16/10/1972. Ông là một trong 7 thành viên ban đầu của Ủy ban Warren và cũng là thành viên duy nhất bất đồng với bản báo cáo của uy ban này, dù cuối cùng vẫn ký vào văn bản một cách miễn cưỡng. Boggs cảm thấy Cục Điều tra Liên bang (FBI) đã giấu nhiều bằng chứng và nói dối. Ông tin rằng, đằng sau vụ ám sát Tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ là một âm mưu. Boggs qua đời trong một tai nạn máy bay bất ngờ tại bang Alaska. Người ta không tìm thấy những mảnh vụn của máy bay.
Sam Giancana mất ngày 19/6/1975. Giancana là kẻ cầm đầu một lũ bất lương tại thành phố Chicago và có quan hệ với Jack Ruby. Hắn bị sát hại ngay trước khi được Ủy ban Warren gọi tới làm chứng về vụ ám sát tổng thống.
Jimm Hoffa mất ngày 30/7/1975. Hoffa là người đứng đầu tổ chức Teamsters Union. Nhiều người tin rằng, hắn biết thông tin về vụ ám sát tổng thống 46 tuổi. Hắn cũng từng đe dọa sẽ giết anh em nhà Kennedy và quan hệ với một số băng đảng tội phạm có tổ chức. Hôm 30/7/1975, hắn đã vĩnh viễn biến mất cùng với những tên cướp trên một chiếc xe. Cảnh sát không tìm thấy thi thể của Hoffa.
Johnny Roselli mất ngày 7/8/1976. Roselli là người có mối quan hệ với CIA sống tại bang Las Vegas. Ông đã tới thành phố Dallas vào ngày vụ ám sát xảy ra và chứng kiến mọi việc. Tuy nhiên, Roselli đã bị sát hại ngay trước khi ông làm chứng trước Ủy ban Warren về vụ ám sát tổng thống. Người ta tìm thấy thi thể ông bị cắt rời và bị ném vào một thùng dầu tại vịnh gần thành phố Miami.
George De Morenschildt mất ngày 30/3/1977. Ông là một nhà địa chất giàu có. Vào mùa hè năm 1962, De Morenschildt kết bạn với vợ chồng Oswald. Một số bằng chứng cho thấy ông có quan hệ với CIA. Vài giờ trước khi Ủy ban điều tra vụ ám sát Tổng thống lên kế hoạch thẩm vấn, De Morenschildt đã tự sát với một khẩu súng ngắn.
Theo Kim Ngân/Tri thức trực tuyến

Bình luận(1)

Minh Hiền

Smile

Ai ám sát tổng thống quả thực họ rất liều, hoặc mình nghĩ đã chán sống.