Ẩn số thế đất xây đền Bà Triệu (2)

Google News

(Kiến Thức) - Có hay chăng Bà Triệu đã chạy vào rừng sâu tới 3km để tuẫn tiết? Di tích dòng sông Âu có ý nghĩa gì với di tích lịch sử quốc gia này?

Và hàng loạt các câu hỏi ập đến với những người đang đi tìm những bí mật của quá khứ lịch sử.

Truyền thuyết núi đá biết nói

Truyền thuyết dân gian vùng Hậu Lộc có truyện núi đá biết nói. Theo đó vào một đêm thanh vắng, trên triền đá của núi Tùng ở làng Phú Điền cất lên một tiếng nói dõng dạc: Có Bà Triệu tướng/Vâng lệnh trời ta/Trị voi một ngà/Dựng cờ mở nước/Lệnh truyền sau trước/Theo gót Bà Vương.

Nghe theo lời thiêng liêng của Trời đất thông qua tiếng nói của thần núi; nhân dân khắp nơi rầm rập kéo về hội tụ dưới cờ của nghĩa quân tại đại bản doanh đóng tại núi Tùng. Tại đây, Bà đã cùng các chiến binh của mình xây dựng 7 đồn lũy làm căn cứ cho nghĩa quân. Từ căn cứ núi Tùng, nghĩa quân dưới sự lãnh đạo của Bà Triệu xuất quân tấn công và chiếm được nhiều lỵ sở của quân Ngô, làm cho quân giặc ngày đêm lo sợ. Nhân dân quận Cửu Chân và nhiều vùng khác nô nức kéo về căn cứ để tham gia đánh giặc cứu nước. 

Với sự ủng hộ của nhân dân, nghĩa quân đã vững vàng chống trả lại lực lượng tinh nhuệ gồm 8.000 quân Đông Ngô do tướng Lục Dận chỉ huy trong nhiều tháng trên bờ sông, khiến cho quân Ngô khiếp sợ phải thốt lên rằng "vung giáo chống hổ dễ, giáp mặt vua Bà khó". Do Lục Dận là một tướng từng trải qua nhiều năm trận mạc, lại có nhiều thủ đoạn mua chuộc các thủ lĩnh người Việt bằng tiền bạc và chức tước. Do có kẻ nội gián phản bội, sau 6 tháng chống chọi với quân Ngô, Bà Triệu đã bị thương và tuẫn tiết trên Núi Tùng.

Lễ hội đền Bà Triệu. 

Sông cổ lý giải chiến trường xưa

Điều đáng nói là vùng núi nơi nghĩa quân chọn làm căn cứ hiện cách các dòng sông chính hiện nay - sông Lèn nơi gần nhất là 3km, vậy chiến trường trên bờ sông xảy ra ở đâu và nếu đã chạy vào rừng sâu tới 3km thì khó có thể giải thích động cơ tuẫn tiết của người anh hùng có khí phách như Bà Triệu. Phải chăng dòng sông nơi diễn ra các cuộc chiến anh dũng của nghĩa quân đấy chính là sông Âu, cách núi Tùng khoảng 1,5km theo đường chim bay?

Khảo sát theo dọc chảy còn lại hiện nay của sông Âu từ ga Nghĩa Trang về phía Tây đến xã Hoàng Khánh, huyện Hoàng Hóa và về phía Đông Nam đến thị trấn Duy Tinh thuộc huyện Hậu Lộc cho thấy có dấu vết dòng sông cổ rộng lớn với khoảng cách giữa hai bờ đê cổ, có nơi rộng đến gần 1km và vết tích các thềm sông. Mặc dù, hiện tại vị trí sông Âu có thể thông với sông Mã (xã Hoàng Khánh) đã bị chặn bởi đê sông Mã, cũng như dòng chảy trung bình của sông Âu chỉ còn biểu hiện trong một dòng chảy rất bé mà thuyền nan đi lại gặp nhiều khó khăn. 

Ngay cả tại thị trấn Duy Tinh, xã Văn Lộc, huyện Hậu Lộc; nơi trước đây hạm đội thuyền của Hải quân nhà Lý do Lý Thường Kiệt chỉ huy đã từng neo đậu, dòng sông cũng rất nhỏ hẹp chỉ thuyền nan mới đi lọt. Các mâu thuẫn trên có thể loại bỏ, nếu thừa nhận dòng sông Âu là một nhánh hạ lưu lớn của hệ thống sông Mã - sông Chu vào thời kỳ Bà Triệu, chuyển nước từ hệ thống này tại Hoàng Khánh, Hoàng Hóa ra sông Lạch Trường qua thị trấn Duy Tinh. 

Dựa vào địa hình cảnh quan sông Âu như đã nói trên, có thể khẳng định chiến trường khốc liệt giữa nghĩa quân Bà Triệu và giặc Ngô là bờ sông Âu, nằm sát với ga Nghĩa Trang hiện nay. Khi thất trận, Bà Triệu chạy được đến Núi Tùng, cách bờ sông Âu gần 1,5km thì tuẫn tiết để khỏi rơi vào tay giặc Ngô. 

Và như vậy, căn cứ Phú Điền, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc của nghĩa quân Bà Triệu vào thời kỳ lịch sử đó rất đắc địa về mặt quân sự. Nó rất thuận lợi cho việc phòng thủ và tấn công của nghĩa quân theo đường thủy; về phía Tây theo dòng sông Mã và sông Chu; về phía Đông qua thị trấn Duy Tinh ra sông Lạch Trường, sông Trà Giang, ra biển; về phía Bắc ra sông Lèn và các chi lưu khác. Câu hỏi tại sao sông Âu mất vai trò là dòng chảy chủ đạo của hạ lưu hệ thống sông Mã - sông Chu, bị ngăn với sông Mã bằng đê tại Hoàng Khánh, dẫn đến hiện trạng cạn kiệt như ngày nay sẽ được đề cập trong bài viết khác. 

Hiểu được dòng sông Âu trong quá khứ, chúng ta sẽ nhận thức rõ hơn về tầm vóc văn hóa lịch sử của người phụ nữ anh hùng trong lịch sử dân tộc Việt Nam: Triệu Thị Trinh không chỉ là người phụ nữ Việt Nam đẹp, có khí phách kiên cường, mà còn là nhà quân sự có tầm vóc chiến lược được tôn vinh với danh hiệu "Nhụy kiều tướng quân". Các triều đại phong kiến Việt Nam trước đây đã có nhiều sắc thượng phong cho người phụ nữ anh hùng Triệu Thị Trinh với những danh hiệu cao quý: Anh liệt, Hùng tài, Vĩ tích, Anh mẫn, Trinh nhất. Về sau vua Lý Nam Đế đã khen Bà là người trung dũng, sai lập miếu thờ và sắc phong "Bật chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu nhân". 

TIN BÀI LIÊN QUAN

BÀI ĐANG ĐỌC NHIỀU

PGS.TS Lưu Đức Hải

Bình luận(0)